Misty Forest

“Ràng buộc con người không phải là lời thề. Chỉ cần mình tự cảm thấy thiết tha với một điều nào đó, thế là đủ rồi.” – Ethel L.Voynich

[AnY] Mùi hoa quế còn vương trên nếp áo – Bốn

Quay lại mục lục

Xem chương 3

Bốn.

Cúc mùa thu

***

Khi những nụ hoa cúc bên bờ giậu chuẩn bị xoè cánh khoe sắc, khi gió đã đượm mùi hương yên ả của mùa thu, khi đèn lồng cùng bánh trái được bày bán khắp nơi và không khí trung thu đã rộn rã trên mọi ngõ phố, cũng là lúc vòng thi cuối cùng của kì thi chọn học giả hoàng tộc được tổ chức. Năm đó có hai mươi thí sinh được chọn. Vào ngày ấn định, họ sẽ phải có mặt ở quốc tử giám – nằm trong phạm vi của cung điện – trước bình minh. Sau cuộc sát hạch về phong thái, lễ nghi, cách ứng xử ở sảnh ngoài, từng người khi nghe gọi tên sẽ bước vào phòng trong, nơi quan chủ khảo và các học giả của Không tộc trực tiếp kiểm tra kiến thức của họ. Trong lịch sử, đôi khi chính hoàng đế cũng dự buổi vấn đáp này.

Ở dinh vương tử, công tác chuẩn bị đã bắt đầu từ tận một tháng trước, do cả người dự thi lẫn vương tử đều mắc chứng lo xa, cầu toàn và căng thẳng quá độ. Đến buổi sáng trước khi lên kinh, Kye-sook tự tin rằng mình sẽ không phạm bất kì lỗi nào về lễ nghi. Mọi quy tắc, luật lệ trong cung anh đều thuộc nằm lòng. Mối lo của anh chỉ nằm ở vòng vấn đáp mà thôi.

Lần này Joo-doh đã là tướng quân Không tộc, không thể thân chinh đến tận dinh thự đưa Kye-sook đi như hai vòng thi trước, nhưng ngài ta đã hứa sẽ đón anh ngay cổng kinh đô. Thành thử Soo-won nhờ Hyoori hộ tống anh. Kye-sook không lấy làm phiền, bởi đi cùng Hyoori cũng chẳng khác gì đi một mình. Người đàn ông ấy hiếm khi chịu mở miệng, còn luôn ẩn mình trong bóng tối cách xa một quãng. Nhưng chừng nào có Hyoori hộ tống, chừng đó Kye-sook không cần bận tâm đến thổ phỉ hay trộm cướp. Chỉ cần như vậy là đủ. Anh không có nhu cầu tìm bạn đồng hành nhiều chuyện, nhất là khi đang căng thẳng .

Người thanh niên dậy khi trời còn mờ tối, kiểm tra lại hành lí đã soạn từ đêm qua, tắm rửa rồi khoác lên mình bộ áo xanh của sĩ tử, với vạt và ống tay áo viền đen, trơn nhẵn không thêu bất kì hoa văn nào. Đoạn anh ngồi xuống trước gương đồng, chải mái tóc đen dài mượt. Bên ngoài lác đác tiếng gà gáy xa xăm, và trời chầm chậm hửng lên sắc ngà nhợt nhạt.

“Kye-sook.” Tiếng vương tử vẳng đến sau lưng anh. “Ngài không được bỏ bữa sáng. Lên kinh cũng không được bỏ bất cứ bữa nào, và đêm nay nhớ đừng thức quá khuya.”

“Điện hạ nói hệt như ông bố già khó tính Joo-doh sẽ nói vậy. Thần đã bảo ngài không cần dậy sớm tiễn thần.” Kye-sook quay lại, thấy Soo-won mang đến mấy món điểm tâm và một ấm trà. “Điện hạ, những việc này để người hầu làm là được.”

“Nhưng ta thích.” Soo-won đáp gọn. Kye-sook ngưng càu nhàu. Nói thì nói vậy, song anh thật lòng cảm kích vương tử đã có mặt ở đây, trước lúc anh lên đường.

“Tóc Kye-sook dài ra thêm rồi nhỉ.” Vương tử đặt khay lên bàn rồi ngồi xuống bên cạnh anh, nhìn suối tóc đen chảy dài đầy ngưỡng mộ. “Lại còn càng ngày càng óng mượt. Tóc ta chẳng bao giờ thẳng được như thế.”

“Vào cung sẽ phải chỉnh tề gọn gàng. Thần đang không biết nên buộc lại hay búi lên.” Kye-sook xoay cây lược gỗ trong tay. Trước giờ anh luôn thả cho tóc xoã tự do, không dùng đến dây buộc hay trâm. Nhưng lần này là sự kiện đặc biệt.

“Ta nghĩ Kye-sook nên búi một phần thôi. Còn lại vẫn thả, như vậy vừa đỡ gãy tóc, vừa khoe được độ mượt đẹp~” Soo-won hăm hở đề nghị. “Để ta búi cho ngài. Mẹ ta từng dạy phải làm thế nào.”

“Búi kiểu đó sẽ cần trâm, mà thần lại không có.”

“Ta có đây.” Cậu nhóc rút trong tay áo ra một cây trâm mảnh bằng vàng, với những hoa văn tinh xảo chạy dọc một bên thân. “Để ta giúp Kye-sook.”

Nói đoạn không chờ người kia kịp phản ứng, Soo-won đã chộp lấy cây lược, bắt đầu chải từng lọn tóc đen óng, tỉ mỉ vấn lên đỉnh đầu, ép chặt rồi cẩn trọng gài trâm qua. Tóc mềm mượt như lụa, chảy qua tay rất dễ chịu, chẳng khác nào chạm vào dòng thác mát rượi. Thực ra Soo-won có thú vui nghịch tóc người khác, nhưng đối tượng là Kye-sook thì không thể nghịch quá lâu, sẽ rất khó xử cho cả hai bên bởi những quy tắc ngầm họ tự đặt ra.

“Cây trâm này… thần không thể…” Kye-sook nhìn bóng mình trong gương sau khi Soo-won hoàn thành tác phẩm của mình. Quả nhiên búi lên nhìn gọn gàng hơn nhiều, cũng bớt u ám đi vài phần.

“Ta tặng ngài.” Vương tử mỉm cười. “Xem như quà chúc may mắn.”

“Thần không dám.”

“Nếu ngài từ chối ta sẽ buồn chết mất. Cứ giữ lấy đi, Kye-sook.”

Lẽ ra Kye-sook sẽ còn dùng dằng thêm, nếu không phải bình minh đã rạng, độ nửa giờ nữa là phải khởi hành. Anh đành ăn qua loa điểm tâm rồi khoác áo choàng đi đường, chuẩn bị thắng yên ngựa, lòng thầm nhủ phải tìm cách trả lại cây trâm sau khi thi xong.

“Kye-sook, thượng lộ bình an.” Vương tử ngước lên nhìn anh, khi Kye-sook đã yên vị trên lưng ngựa. “Ta cũng sẽ lên kinh dự lễ trung thu của hoàng tộc, như mọi năm. Thực ra ta muốn cùng xuất phát với ngài hôm nay luôn, nhưng dinh thự còn vài việc cần sắp xếp nên đành đi sau. Hai ngày nữa là có thể gặp ngài rồi~ Ta sẽ chờ Kye-sook ngay cổng cung điện.”

“Ngài nói gì vậy? Chỉ năm người điểm cao nhất mới được dự lễ.”

“Ta tin chúng ta có thể dự lễ cùng nhau.” Cậu nhóc khẳng định, giọng không chút dao động. “Nhớ đấy, hai ngày nữa, lúc hoàng hôn ta chờ Kye-sook ngay cổng cung điện.”

Kye-sook suy nghĩ về lời Soo-won gần như suốt hành trình đến kinh đô.

Vì vương tử đã nói thế, nên anh bằng mọi giá phải biến nó thành hiện thực.

***

Trong mắt Joo-doh, vương tử mãi mãi là cậu nhóc luôn thoắt ẩn thoắt hiện như con mèo khiến ngài phải đi khắp Kuuto lùng kiếm, còn tên nhóc bên cạnh vương tử luôn là đứa trẻ thương tích đầy mình ngài Yu-hon đem về bốn năm trước, đứa trẻ gầy còm chỉ đứng đến ngực ngài, lúc nào cũng âm thầm lặng lẽ, nhưng khi cần cũng rất biết cách mỉa mai với cái lưỡi sắc như dao của mình.

Thành thử ngài khựng lại một nhịp khi nhìn vị sĩ tử bước qua cổng cung điện, vào buổi sáng diễn ra vòng thi thứ ba, đầu ngẩng cao và mọi thứ đều chỉnh tề tuyệt đối. Trong bộ áo xanh sẫm không một nếp nhăn, tóc búi gọn gàng gài trâm vàng, đứa trẻ tàn tật năm nào giờ đã mang phong thái của một học giả hoàng tộc và một quân sư tương lai rồi đây sẽ sát cánh chiến đấu bên ngài. Lòng vị tướng quân đột nhiên dâng lên vài cảm xúc kì lạ, giống như phụ huynh nhìn con cái giờ đã trưởng thành, vừa tự hào nhưng cũng không tránh khỏi chút tiếc nuối vì thời gian qua quá nhanh.

“Kye-sook.” Ngài gọi khẽ, cố tình chọn chỗ khuất để các thí sinh khác không nhìn thấy, phòng khi có người đặt điều rằng cậu ta được tướng quân Không tộc nâng đỡ.

Người thanh niên rẽ sang chỗ ngài. Cậu ta cố gắng đứng thẳng lưng, nhưng vẫn thua ngài một cái đầu. Joo-doh nhìn xuống, lại thấy tên nhóc này vẫn còn nhỏ lắm, suýt nữa thì vươn tay xoa đầu cậu ta, nếu không phải mái tóc bóng mượt đến phi lí của Kye-sook khiến ngài có cảm tưởng mình sẽ mắc tội tày đình nếu làm rối nó, dù chỉ một cọng.

“Hợp với ngươi đấy.” Ngài nhìn vị sĩ tử từ đầu đến chân. “Ra dáng quân sư tương lai lắm.”

“Cảm ơn ngài, tướng quân.” Có lẽ do sắp bước vào cuộc sát hạch lễ nghi nên Kye-sook nói năng nhã nhặn bất thường, không phản đối hay tranh cãi như mọi khi. “Làm ngài phải bận tâm nhiều rồi. Giờ không còn sớm, tôi không nán lại lâu được.”

Người kia nói bằng giọng đều đều bình thản, khuôn mặt cũng không biểu lộ bất cứ cảm xúc nào, nhưng Joo-doh để ý thấy bàn tay giấu trong ống tay áo đang run nhẹ. Ngài nhớ lại nỗi căng thẳng khủng khiếp cậu ta thể hiện trong hai vòng thi trước. Rõ ràng giờ Kye-sook đã có tiến bộ hơn trong việc kiểm soát cảm xúc, song rốt cuộc cậu ta vẫn chỉ là một sĩ tử mười tám tuổi, lần đầu đặt chân vào cung điện, làm sao có thể triệt tiêu hoàn toàn nỗi hồi hộp trước buổi vấn đáp.

“Bình tĩnh.” Joo-doh đặt tay mình lên bàn tay run rẩy kia. Kye-sook không đẩy tay ngài ra hay rụt tay lại. “Vào đó cứ làm hết sức ngươi là được. Ta tin ngươi.”

“Tôi sẽ cố gắng.” Người kia khẽ cúi đầu, vái chào rồi quay đi, bước qua cổng quốc tử giám.

Khi bóng cậu ta khuất biệt và tiếng trống báo hiệu giờ thi bắt đầu vang lên, Joo-doh chợt thấy đồng cảm với phụ huynh của mười chín sĩ tử còn lại. Tuy khuyên Kye-sook bình tĩnh, nhưng ngài lại không sao bình tĩnh nổi. Lỡ đâu tên nhóc ấy lỡ lời phạm thượng, lỡ đâu quan chủ khảo không ưa mớ tóc mái loà xoà của cậu ta, lỡ đâu họ hỏi trúng vấn đề cậu ta không rành, lỡ đâu… Đủ mọi giả định u ám có thể xảy ra.

Hôm đó binh sĩ trong doanh trại đều dễ dàng nhận ra tướng quân đang có tâm trạng không ổn, căn cứ vào việc ngài dễ nổi nóng gấp đôi, nghiêm khắc gấp đôi, và đánh mạnh gấp ba. Nhưng được cái ngài cho nghỉ sớm hơn mọi khi đến nửa giờ, vừa ra lệnh giải tán đã vội vội vàng vàng chạy đi mất, bỏ lại sau lưng hàng trăm giả thuyết được binh sĩ Không tộc đoán già đoán non, cái sau điên rồ hơn cái trước.

Vị tướng quân đến vừa kịp lúc các sĩ tử lũ lượt rời khỏi quốc tử giám. Kì thi năm nay chính thức kết thúc. Trên những khuôn mặt non trẻ ấy là đủ mọi biểu cảm, nhưng đều có chung một quầng mây lo sợ xám xịt. Giờ là lúc quan chủ khảo và các học giả hội ý. Kết quả chung cuộc sẽ được công bố vào chiều nay. Sau khi nghỉ trưa, họ sẽ một lần nữa tập trung trước sân, nghe xướng tên tân khoa – những người sẽ có mặt trong lễ mừng trung thu của hoàng tộc đêm mai.

Kye-sook bước ra cuối cùng. Trái với tưởng tượng của Joo-doh, cậu ta chẳng có chút lo sợ nào. Khuôn mặt hơi tái, nhưng phảng phất một vẻ tự tin lẫn đắc thắng không lẫn vào đâu được. Dẫu chẳng biết chuyện gì đã xảy ra trong phòng thi suốt mấy giờ qua, nhưng Joo-doh lập tức cho phép mình thở phào nhẹ nhõm. Nếu Kye-sook đã biểu lộ như vậy, chắc chắn không cần phải lo lắng thêm nữa.

“Ngươi sao rồi? Ổn không?” Ngài hỏi ngay khi người kia tiến đến, dù đã biết trước câu trả lời.

“Tạm ổn.” Kye-sook nói, gạt bớt mớ tóc mái bết mồ hôi qua một bên. “Tướng quân, tôi nhớ đường về mà. Ngài không cần phải đến đón tôi thế này đâu.”

“Dù sao hôm nay ta cũng không bận lắm.” Ngài nói, đưa bình nước cho người kia. “Uống nước rồi nghỉ tí đi. Gần đây có một ngôi đình, ra đó ngồi cho mát. Khoảng hai giờ nữa là có kết quả, quay về chỗ trọ thì mất công.”

Người kia có vẻ đã thấm mệt sau mấy giờ căng thẳng, nên gật đầu đồng ý ngay, không nói gì thêm. Ngài dẫn cậu ta ra đình, đang định hỏi có cần ăn gì không, quay sang thì đã thấy cậu ta tựa đầu lên bàn thiếp đi. Ngài có thể mường tượng đám học giả kia tra tấn sĩ tử đến mức nào.

“Vất vả rồi.” Joo-doh khẽ nói, vỗ nhẹ vai cậu ta. Ngài yên lặng ngồi canh cho người kia ngủ, chờ đến giờ thông báo kết quả.

Người kia ngủ thẳng một giấc, không cựa mình lấy một lần, và có lẽ sẽ quên cả giờ tập trung nghe kết quả nếu không có Joo-doh đánh thức. Cũng may chỉ cần lay vài cái là tỉnh ngay, nhưng tỉnh rồi thì cậu ta bắt đầu trở chứng, trông khó chịu cáu kỉnh hơn trước khi ngủ rất nhiều, còn làu bàu rằng khỏi cần nghe kết quả cũng được. Vị tướng quân phải rất cố gắng để không nổi nóng, nhưng vẫn không nhịn được cằn nhằn vài câu. Mãi tới khi nghe hai hồi trống báo hiệu, Kye-sook mới chịu rời khỏi đình, trông như sắp đi đến đoạn đầu đài chứ không phải đến quốc tử giám.

Joo-doh vốn rất muốn vào nghe kết quả, dù sao tên nhóc ấy cũng do một tay ngài giám sát và đưa đón suốt ba vòng thi. Tuy nhiên, sự có mặt của tướng quân tối cao sẽ gây rất nhiều phiền toái cho cậu ta, thành thử ngài đành ngồi lại đình, thấp thỏm chờ đợi.

Từ chỗ ngài đang ngồi có thể nhìn thấy một phần lối đi trước cổng quốc tử giám. Độ nửa giờ sau, đám sĩ tử bắt đầu lục tục kéo ra. Ngài thoáng nghe tiếng ai đó khóc nấc. Vậy là khoa thi chính thức kết thúc. Sẽ có những người ở lại kinh đô, tiếp tục đường công danh, cũng có những người lặng lẽ trở về ngay trong đêm, mang theo một giấc mộng dở dang cùng những giọt lệ đầy tiếc nuối. Mỗi thí sinh khi bước qua cánh cổng vào giây phút ấy đều mang một tâm trạng, và một tương lai khác nhau hoàn toàn. Những ai lỡ vận lần này sẽ phải đợi đến ba năm sau mới có cơ hội ứng thí lần nữa. Họ có thể quay lại đây, hoặc không bao giờ. Nhiều cơ hội chỉ đến một lần.

Joo-doh miên man suy nghĩ, đến khi dòng người kia tản mát đi hết, trả lại sự tĩnh lặng cho quốc tử giám trong ánh nắng chiều vàng rực.

Chẳng thấy Kye-sook đâu.

Vị tướng quân đứng bật dậy, thầm nguyền rủa tên nhóc ấy chẳng biết học cái thói tuỳ tiện của vương tử từ bao giờ, lúc nào cũng có thể biến mất tăm không báo trước và làm người ta lo sốt vó.

Hầu như chẳng còn ai nán lại quốc tử giám, quan chủ khảo và các học giả chắc cũng đã ra về, nên ngài không cần giấu mặt nữa. Joo-doh lao đến cổng, nhìn vào khoảng sân gạch vắng ngắt bên trong. Chỉ có tiếng gió thổi xác lá xao xác trên nền gạch.

Kye-sook đang ngồi tựa lưng vào một gốc cây, cách không xa cổng lắm. Vì cậu ta quay mặt lại với ngài, nên vị tướng quân không thể nhìn thấy biểu cảm.

“Ngươi sao vậy?” Joo-doh vội tiến đến, sợ rằng lúc sáng mình yên lòng quá sớm. Lỡ đâu giả định tồi tệ nhất lại xảy ra khi người ta chủ quan nhất. “Có sự cố gì rồi sao?” Ngài cẩn trọng hỏi, cố không chạm đến chủ đề nhạy cảm lúc bấy giờ.

Kye-sook đưa tay lên, khẽ gạt tóc mái và cả thứ gì đó vương trên khoé mắt mà cậu ta không muốn người khác thấy. Cậu ta chầm chậm quay lại, giọng hơi run. “Không, không có sự cố gì hết. Tôi… đậu rồi.”

“Vậy được. Đậu cao không?” Joo-doh nhẹ hết cả người.

“Đủ để dự lễ trung thu trong cung điện ngày mai…” Người kia nói mập mờ.

Vị tướng quân dợm lên tiếng, nhưng chợt thấy mọi lời lẽ đều không diễn tả nổi điều đang trào dâng trong lòng ngài. Mọi sự bắt đầu từ mùa đông năm ngoái, khi ngài đến dinh vương tử và biết rằng Kye-sook quyết định tham dự kì thi chọn học giả hoàng tộc. Đến vòng thi đầu tiên sau lễ mừng năm mới, khi ngài phải chịu đựng biết bao sự khùng điên thất thường của một sĩ tử mắc chứng lo lắng quá độ. Rồi khoảng thời gian vương tử và cậu ta nán lại khu nhà biệt lập trước vòng thi thứ hai, giúp ngài khuây khoả phần nào suốt những ngày dưỡng thương. Tới giây phút vương tử chỉ cho ngài cái tên trên bảng niêm yết sau ngày ngài trở thành tướng quân. Và cuối cùng, là khoảnh khắc này.

Gần một năm, ngài không rõ từ bao giờ mình đã cùng lo lắng chung với người kia, trải qua đủ mọi cung bậc từ phiền toái, mệt mỏi, lo âu, phiền não, nhẹ nhõm, vui mừng chẳng khác nào bản thân ngài cũng là một sĩ tử. Ấy là ngài mới chỉ chịu trách nhiệm đưa đón Kye-sook đi thi. Người luôn ở cạnh cậu ta như vương tử có lẽ còn phải chịu đựng nhiều hơn.

Giờ đây, tất cả đã được đền đáp xứng đáng.

Không thể cất nên lời, vị tướng quân bèn vươn tay xoa đầu người kia một hồi, bất chấp việc có thể làm hỏng mái tóc bóng mượt tuyệt đối ấy. Đáng ngạc nhiên là Kye-sook không phản đối.

“Tướng quân, thời gian qua ngài vất vả rồi.” Cậu ta khẽ nói khi ngài bỏ tay ra. “Cuối cùng kì thi cũng kết thúc, có lẽ ngài sẽ không phải phiền lòng thêm nữa.”

“Ngươi nói như thể từ nay ta và ngươi sẽ không còn chung đường ấy. Ta ngờ rằng sau này trở thành quân sư, ngươi sẽ còn làm phiền ta dài dài.” Joo-doh nói. “Mà khoan, ta còn chưa hỏi ngươi. Nếu đã biết mình thi đậu, sao không ra sớm, còn nán lại đây làm gì?”

“…”

“Chậc, không muốn trả lời cũng không sao. Sắp hoàng hôn rồi, về thôi.” Ngài đứng dậy hối. Kì quái là người kia vẫn ngồi yên một chỗ. Joo-doh biết là có khúc mắc gì đó, nhưng ngài muốn tên nhóc này tự nói ra hơn. Lúc nào cũng im im thì người ta biết đâu mà lần.

“Lính gác sẽ đóng cổng nơi này trước khi đêm xuống. Không về thì ngươi cứ ở lại đây qua đêm.” Ngài nói qua vai, rồi phất áo bước ra cổng. “Ta không có thời gian chờ ngươi đâu.”

“Tướng quân.”

“Chuyện gì?”

“Tôi… không đứng dậy được.”

Vị tướng quân nhướng mày. “Hả?”

“Tôi không đứng dậy được.” Kye-sook thở dài, đầu cúi gằm. Rốt cuộc cậu ta cũng chịu thú nhận. “Từ lúc nghe xướng tên mình, chân tôi không đứng vững nổi nữa.”

“Có liên quan đến vấn đề của cơ thể ngươi không?” Ngài lo lắng hỏi, sợ rằng những vết thương cũ lại tái phát.

“Tôi nghĩ là không.”Kye-sook nhún vai. “Chỉ là… tôi chưa chuẩn bị tinh thần…”

Joo-doh không tin vào tai mình. Ra đó là lí do. Vậy mà ngài cứ ngỡ cậu ta đã tiến bộ trong việc kiềm chế cảm xúc. Rốt cuộc vẫn là một tên nhóc không làm chủ được mình khi quá xúc động. Đây không phải lần đầu tiên ngài gặp tình trạng này, nhưng thường người ta không cử động nổi vì sợ hãi nhiều hơn là vì vui mừng. Kye-sook quả nhiên lúc nào cũng có điều khiến ngài bất ngờ. Nhưng thế cũng đủ biết cậu ta đã đặt toàn tâm toàn ý – thậm chí là cả cuộc đời – vào kì thi này như thế nào.

 “Ngươi phải nói sớm chứ. Làm ta tưởng ngươi lại trở chứng làm chuyện khùng điên như hồi đang ôn thi.”

Người kia không đáp, lẩm bẩm gì đó nghe như “ác quỷ” và “mắng mỏ”. Joo-doh cố tình lờ đi. Nổi cáu lúc này thì không hợp cho lắm.

“Đưa tay đây.” Ngài vươn tay ra. “Để ta giúp ngươi. Dù sao ngươi cũng đã, và sẽ làm phiền ta thêm nhiều năm nữa, nên chút phiền toái này cũng không sao.”

Người kia chần chừ một lúc, rồi cuối cùng cũng chịu ngẩng lên, nắm lấy bàn tay đang chìa ra cho mình.

“Tôi hứa chuyện này sẽ không tái diễn…”

“Làm sao biết trước được. Nếu tái diễn thì ta cũng phải chịu đựng ngươi thôi.” Joo-doh nói, kéo Kye-sook dậy rồi để người kia tựa vào vai mình, cẩn thận đưa cậu ta rời khỏi cung điện. Lòng ngài vẫn không khỏi cảm thấy kì quái, vì tình huống hiện tại giống cảnh đưa binh sĩ bị thương rời khỏi chiến trường hơn là cảnh đón tân khoa trong tưởng tượng của ngài suốt cả năm nay.

Tên nhóc này quả là gây rắc rối từ đầu chí cuối.

***

Kye-sook mãi mãi không quên ngày hôm đó.

Sau khi trở về chỗ trọ, anh thao thức cả đêm không ngủ nổi. Ít ra tay chân đã cử động bình thường, song tâm trí thì rất khó ổn định lại, sau một ngày quá dài với vô vàn cảm xúc đan xen lẫn lộn. Đủ mọi suy nghĩ quay cuồng trong đầu, đánh tan tất thảy mệt mỏi lẫn buồn ngủ. Kye-sook có thể nhìn thấy con đường phía trước mở rộng, cảm giác bế tắc và những suy nghĩ bản thân vô dụng cũng tạm tan biến. Giờ anh đã có thể đường đường chính chính phục vụ vương tử với tư cách một học giả, một cố vấn, mà không cần để ý đến những lời dèm pha rằng anh chỉ được ngài và cha ngài thiên vị.

Trằn trọc một hồi, người thanh niên trở dậy, khoác thêm áo đến ngồi cạnh cửa sổ, nhìn ra một vùng đẫm ánh trăng bạc, nghe tiếng côn trùng nỉ non dưới lá. Kuuto ban ngày rất đông đúc náo nhiệt, nhưng vào nửa đêm mọi ngõ phố cũng yên tĩnh như khu ngoại thành. Nếu giờ đang ở dinh thự, anh có thể tự nấu nước nóng để pha trà, vì phòng luôn có lò than. Nhưng chỗ trọ thì không, nên anh đành uống nốt ấm trà nguội pha lúc tối. Khi chén trà đã vơi và lòng đã tĩnh lại, anh chợt nhớ mùi hương hoa quế vô cùng, nhớ cả buổi tối cùng vương tử trọ lại đây. Sáng mai hầu như rảnh rỗi, anh định sẽ thử tìm xem ở đâu bán trà hoa quế, vì họ đã dùng hết lọ trà tự làm hồi cuối xuân. Anh không thể rủ Joo-doh trèo cây hái hoa như vương tử sẽ làm.

Nghĩ đến vương tử, niềm mong mỏi được báo kết quả với ngài lại trỗi dậy, mạnh mẽ hơn cả hôm đi xem bảng niêm yết của vòng thi thứ hai. Kye-sook bắt đầu nóng ruột, có cảm tưởng như từ đây đến chiều mai quá dài, không cách chi đợi nổi. Soo-won đã hứa sẽ chờ anh trước cổng cung điện, trước buổi lễ trung thu. Mới hôm trước, với Kye-sook, chuyện đó giống như một giấc mơ xa vời. Nhưng bây giờ, giấc mơ đã trở thành hiện thực, và anh đếm từng giờ từng khắc để có thể nói câu “thần đậu rồi” một lần nữa. Kye-sook không quan tâm đến hoàng tộc hay lễ tiệc, cũng không có ý định gây ấn tượng với các quan lại, quý tộc. Anh chỉ cần được cùng vương tử dự lễ, không phụ niềm tin của ngài, như thế là đủ.

Chẳng mấy chốc, tiếng gà gáy sáng vang vọng khắp bầu không, kinh đô chầm chậm thức giấc, chân trời phía đông sáng lên sau màn sương mù mỏng. Đã quen thức đến sáng nên một đêm trằn trọc mất ngủ cũng không ảnh hưởng gì mấy, Kye-sook vẫn tỉnh táo như thường. Anh soạn lại hành lí, tắm rửa thay áo búi tóc chỉnh tề, chờ đến lúc quán ăn phía dưới nhà trọ mở cửa thì xuống dùng điểm tâm, rồi dành cả giờ ngồi đọc sách bên ấm trà nóng mới pha. Bình thường khi ở một mình trong trạng thái căng thẳng, Kye-sook có nếp sống tuỳ tiện hơn nhiều, anh sẽ chẳng ngó ngàng gì đến thân mình và thường xuyên bỏ bữa. Nhưng hôm nay tâm trạng đang tốt, nên anh tự cho phép mình tận hưởng hương vị ngọt ngào của chiến thắng chung cuộc. Vả lại chiều nay vương tử sẽ đến kinh đô, không thể để ngài và Joo-doh cằn nhằn anh không chịu chăm sóc bản thân đàng hoàng.

Khi vầng dương lên đến nửa trời, đường phố và quán ăn bắt đầu ồn ào đông đúc, Kye-sook gấp sách lại, khoá cửa phòng rồi thong thả tản bộ dọc theo ngõ phố, không quên ghé vào chọn vài chiếc trâm gỗ để sau này tiện búi tóc, vì anh không thể dùng cây trâm vàng của vương tử mãi. Đứng dưới phố nhìn lên là thấy cây hoa quế nơi lưng chừng đồi, cạnh cầu thang đá dẫn lên đền thờ bỏ hoang. Hoa quế vẫn lác đác nở, nhưng Kye-sook sẽ không nhọc công leo lên chừng đó bậc thang. Đêm đó chỉ là anh miễn cưỡng chiều ý vương tử.

Người thanh niên dễ dàng tìm mua được mấy lọ trà hoa quế khô trong tiệm trà trên phố chính, rồi đi thẳng đến bờ sông, quay lại tiệm sách cũ đúng như lời hứa lần trước. Vị học giả đã tìm cho anh vài cuốn sách hiếm về chiến thuật. Vì lần này không có sức ép về thời gian, không có nỗi lo sợ ám ảnh về vòng thi kế tiếp, tiệm lại khá vắng khách, nên Kye-sook thoải mái đàm đạo về kinh thư, học hành, thế sự với chủ tiệm, thậm chí hai người còn đánh vài ván cờ giải khuây. Thời gian cứ thế trôi, đến quá trưa anh mới rời khỏi đó, lại mang theo một mớ sách vở giấy bút cùng niềm vui đơn giản chỉ đám mọt sách mới hiểu. Anh đoán giờ này vương tử đang trên đường tới Kuuto. Chỉ vài giờ nữa là có thể gặp ngài. Dĩ nhiên anh có thể ra đứng đợi ngay cổng vào kinh đô, nhưng anh muốn làm đúng lời hứa giữa hai người họ là chờ nhau trước cung điện hơn.

Vừa đặt chân lên thềm nhà trọ, Kye-sook liền thấy Joo-doh đang ngồi trong quán. Ngay lập tức, một câu trách móc vẳng ra. “Ngươi lang thang những đâu giờ mới về? Làm ta còn đang tính đi tìm.”

“Tôi đi dạo quanh đây thôi.” Kye-sook nhăn nhó, tự hỏi đến lúc nào ông bố khó tính này mới yên tâm để anh đi một mình. Có vẻ an ninh ở Kuuto đã được cải thiện hơn sau khi Joo-doh trở thành tướng quân, nhưng không phải là không có nguy cơ đụng trúng tội phạm. Anh hiểu nỗi lo của Joo-doh, nhưng cũng không thích việc vừa về đã bị trách. “Tôi thành thực không biết tướng quân đến. Để ngài đợi lâu thật thất lễ. Xin tướng quân trách phạt.”

“Rồi, rồi. Mỗi lần nghe mấy lời khách sáo của ngươi ta đều nổi hết cả da gà. Chắc là ngươi chưa ăn trưa.” Joo-doh nhìn đống sách vở và mấy lọ trà anh đang ôm. “Ngồi xuống đây, gọi món đi. Ta đãi.”

“Tôi không dám để tướng quân tối cao mời…”

“Có ngồi xuống đây không thì bảo!”

“Vâng.” Kye-sook lẩm bẩm, ngoan ngoãn ngồi xuống ghế, kịp thời kìm lại hai chữ “thưa bố” vì rất có thể anh sẽ bị cốc đầu nếu lỡ nói ra.

“Tướng quân cất công đến đây chắc không phải chỉ để ăn một bữa?” Anh hỏi, sau khi họ đã dùng xong bữa trưa trong im lặng.

“Cũng không có gì quan trọng. Chiều nay ta rảnh. Trong khi chờ đến buổi lễ trung thu, ta định dẫn ngươi đi tham quan một chút. Khách khứa từ Ngũ tộc đều kéo về dự lễ, cung điện rất đông người vào ra, sẽ không ai để ý ngươi đâu.” Joo-doh nói.

“Tôi có được vào doanh trại không?”

“Được. Nhưng không được phép vào bãi tập nơi các binh sĩ đang thao luyện, chỉ nhìn từ xa thôi.”

“Vậy là được rồi.” Kye-sook cúi đầu.

Hai người dành nốt buổi chiều thăm thú các nơi quanh cung điện, từ hoa viên rất rộng đến doanh trại nơi Joo-doh luyện quân mỗi ngày. Ngài để ý ánh mắt người kia không rời khỏi đội quân đang diễn tập phía xa. Một ngày nào đó, cậu ta sẽ đứng trên tường cao, bên cạnh ngài, bàn luận về quân lương, vũ khí và ra những mệnh lệnh chính xác cho binh sĩ bên dưới. Ngài biết mình có thể tin tưởng cậu ta. Quân sư là chức vị duy nhất Kye-sook hướng tới, là mục đích cuối cùng của tất cả những năm tháng học hành thi cử gian khổ.

“Ngươi đã có dự định gì sau khi thi đậu chưa?” Joo-doh khẽ hỏi, khi dẫn Kye-sook quay lại lối đi hướng về chính điện. Phía Tây, mặt trời chìm trong quầng mây đỏ như lửa. “Nếu ngươi muốn, ta có thể đề cử ngươi vào lo công văn giấy tờ cho ta, rồi từ từ cất nhắc lên tham mưu. Ngươi cũng có thể vào làm trong quốc tử giám hoặc thư viện của hoàng tộc.”

Người kia ngẩng lên nhìn ngài. Một thoáng bi thương vụt qua đôi mắt đen khuất dưới màn tóc mái. “Tướng quân, ngài thật tử tế. Nhưng giờ chưa phải lúc tôi nên ở đây. Tôi chưa muốn làm việc trong cung điện, dưới trướng con người đó và đám quần thần tham ô xu nịnh. Tôi ứng thí chỉ với mục đích duy nhất là phục vụ vương tử.”

Joo-doh cũng đoán trước được câu trả lời. Những gì xảy ra năm đó cắt quá sâu vào trái tim non trẻ kia, chưa kể tình hình triều chính và đất nước ngày càng đi xuống. “Vậy ta sẽ tiếp tục đợi vương tử và ngươi.” Ngài lặng lẽ nói. “Một ngày nào đó, chúng ta sẽ cùng chiến đấu bảo vệ đất nước này.”

“Tướng quân tin tôi sẽ trở thành một quân sư tốt sao? Năm tháng và quan trường có thể khiến con người đổi thay đến không nhận ra. Nếu tôi trở thành một kẻ chuyên quyền, vụ lợi và xảo trá thì sao?”

“Ta tin ngươi.” Ngài chỉ nói ngắn gọn.

Kye-sook cúi đầu, tiếp tục bước đi. Hai người họ không nói gì thêm, đúng hơn là không cần phải nói gì thêm nữa.

Thứ gọi là “niềm tin,” không cần phải giải thích dài dòng bằng ngôn từ hoa mỹ, vì nó là cảm xúc chân thật nhất, thuần tuý nhất, bật ra từ đáy lòng.

Độ vài phút sau, cổng vào cung điện đã ở ngay phía trước, đuốc và đèn đá dọc theo lối đi đã được thắp sáng, hai cánh cửa sơn đỏ gắn đầy đinh tán mở rộng, những khách mời từ Ngũ Tộc bắt đầu lũ lượt kéo vào, tiếng cười nói, chào hỏi rôm rả vọng khắp khoảng sân lớn. Hai người nheo mắt, cố tìm một mái tóc vàng quen thuộc trong đám đông, nhưng không thấy.

Trời tối dần.

Vầng trăng rằm từ từ hiện lên nơi chân trời cùng những vì sao bạc.

Vẫn chẳng thấy Soo-won đâu. Họ đã tìm khắp trong và ngoài cổng, trên hành lang, các lối đi, hoa viên, sân chầu, tất thảy đều không thấy. Joo-doh có thể cảm nhận được nỗi thất vọng mỗi lúc một tăng truyền từ người bên cạnh sang.

“Vương tử đã hứa sẽ đợi ở cổng…” giọng Kye-sook vỡ ra. Cậu ta hẳn đã mong chờ khoảnh khắc này biết bao. Soo-won đúng là chuyên ham vui chạy lung tung khắp nơi, thoắt ẩn thoắt hiện không ai tìm nổi, nhưng một khi vương tử đã hứa, ngài ấy chắc chắn sẽ giữ lời.

“Bình tĩnh. Có thể chỉ là ngài ấy đến trễ. Biết đâu có sự cố gì trên đường.” Joo-doh trấn an người kia, nhưng chính ngài cũng đang lo lắng. Ngài nghe tiếng trống và tiếng nhạc tấu lên từ chính điện phía sau, ước chừng chỉ khoảng nửa giờ nữa là buổi lễ bắt đầu. Ngài nghĩ đến đám trộm cướp thổ phỉ quanh kinh thành, và đang tự hỏi liệu có nên điều động đội cấm vệ đi kiểm tra tình hình không, thì một người khoác áo choàng, tay cầm thẻ bài vội vàng lao vào cổng cung điện, nhìn quanh một chập rồi hướng thẳng đến chỗ họ.

“Thuộc hạ trong dinh thự.” Kye-sook lẩm bẩm, vội bước lên gặp người kia. “Chuyện gì vậy? Vương tử đâu?”

Người đó hạ giọng thật thấp, đến gần như thì thào. Joo-doh phải tập trung hết mức mới nghe nổi. “Ngài Kye-sook, vương tử bất ngờ ngã bệnh từ hôm ngài đi thi, thái y nói không quá nghiêm trọng, nhưng ngài ấy không thể lên kinh được. Ngài ấy nhờ tiểu nhân báo cho ngài và tướng quân Joo-doh rằng hai người cứ dự lễ trung thu, không cần lo lắng.”

Ngay lập tức, vào giây phút người kia dứt lời, Joo-doh cảm thấy một đợt sóng lạnh buốt dâng lên từ Kye-sook.

“Tướng quân, xin thất lễ, tôi phải về đây.” Kye-sook quay phắt lại, trong đôi mắt đen không còn gì ngoài một nỗi sợ hãi ráo hoảnh, đến gần như tuyệt vọng, mà ngài chưa thấy bao giờ.

Nói đoạn không chờ ngài đáp lời, cậu ta đã dợm chạy về phía cổng cung điện.

“Khoan!” Joo-doh vội vàng chụp lấy cổ tay người kia kéo ngược lại, cố gắng không làm đau cậu ta. “Đây là buổi lễ quan trọng, các tân khoa đều bắt buộc phải tham dự, bằng không sẽ bị xem là vô lễ với triều đình, còn có thể bị tước danh hiệu và xử phạt. Ngươi muốn tất cả cố gắng của ngươi trước giờ đổ sông đổ bể sao? Chỉ cần có mặt trong nửa đầu tiệc thôi, sau đó ta sẽ tìm cớ cho ngươi về.”

“Tôi không cần!” Kye-sook cố gắng giằng ra, nhưng cơ thể vô lực ấy không thể chống lại chiến binh mạnh nhất kinh thành. “Ngài không hiểu đâu! Vương tử…” Giọng cậu ta nghe như sắp khóc. “Buông ra. Tôi phải về. Tôi không chịu nổi thêm một giây một khắc nào nữa!”

“Ngươi sẽ phải chịu thôi!” Joo-doh quát, túm chặt hơn, cảm giác như đang giữ một con mèo vùng vẫy cào cấu loạn xạ. “Đúng, có thể ta không hiểu vì sao ngươi lên cơn kích động như thế, nhưng ta hiểu vì sao vương tử phái người đến tận đây nhắn tin. Ngài ấy chắc chắn không bao giờ muốn ngươi huỷ hoại hết một năm cố gắng chỉ vì ngài ấy. Hơn nữa nếu ngươi phạm thượng, cũng sẽ liên luỵ đến cả ngài ấy. Ngươi lớn lên cùng vương tử, ngươi phải thấu suốt ý nguyện của ngài ấy hơn ai hết chứ!”

“Tôi không…” Người kia từ từ lắng xuống, không giằng co nữa, có vẻ đã thấm mệt. Joo-doh chỉ lo mình quá mạnh tay làm ảnh hưởng đến những vết thương cũ, nên cũng thả lỏng dần, ái ngại nhìn cổ tay hằn đỏ kia.

“Đừng khóc.” Ngài hạ giọng. “Chỉ cần gắng gượng có mặt nửa giờ thôi. Còn lại cứ để ta giải quyết. Bảo tên thuộc hạ kia đến nhà trọ lấy hành lí và chờ sẵn trước cung điện.”

“Tôi không có khóc.” Kye-sook nghẹn giọng. “Nhưng ngài không hiểu đâu…”

“Giờ ngươi muốn nói gì ta cũng được. Nhưng phải vào chính điện ngay. Sắp đến giờ rồi.” Ngài hối thúc. “Không đi nổi thì để ta giúp.”

“Tôi tự đi được.” Người kia lạnh nhạt đáp. Cậu ta ngẩng đầu lên, chỉnh lại tóc, vuốt phẳng nếp áo, đeo lấy chiếc mặt nạ lãnh đạm vô cảm. Không còn những vệt nước mắt, cũng chẳng còn nỗi tuyệt vọng vừa bùng nổ vài phút trước. Nhưng nhìn xuống bàn tay run lên trong tay áo thụng, Joo-doh biết cậu ta phải kìm nén đến mức nào.

“Vậy vào thôi.” Ngài không giỏi an ủi người khác, thực sự chẳng biết nên làm gì trước tình huống này. Mà nếu có, ngài cũng không chắc Kye-sook chịu nhận lấy sự an ủi ấy.

Vì chỗ ngồi của tướng quân trong điện cách xa chỗ ngồi của các tân khoa, có những lúc Joo-doh e Kye-sook sẽ đột ngột đứng dậy bỏ chạy thẳng ra cổng, nếu vậy ngài sẽ không trở tay kịp, nhưng cậu ta kiềm chế tốt hơn ngài tưởng – so với một sĩ tử mới đây còn xúc động đến không đứng dậy nổi sau khi nghe xướng tên. Vị tân khoa nhập tiệc với vẻ bình tĩnh đáng kinh ngạc, dửng dưng với mọi lời xì xào về thân phận, bình thản trả lời mọi câu hỏi, uống bất cứ chén rượu nào được quan khách mời, khác hẳn sự chừng mực mọi khi. Ngài hơi quan ngại cho Kye-sook, giống như cậu ta đang mượn rượu để dằn xuống những cảm xúc khác, và ngài sợ rằng lát nữa cậu ta sẽ say mèm trước khi kịp ra đến cổng.

Thời gian trôi chậm như cả ngàn năm. Joo-doh mải để ý tên nhóc kia, không thiết ăn uống hay trò chuyện. Cũng may hôm nay kẻ chuyên gây rắc rối cho ngài, tên Geun-tae cáo bận không đến. Nội việc ngài phải quản một khối rắc rối đang uống rượu tì tì dưới kia đã mệt lắm rồi. Ngài không nghĩ Kye-sook, người luôn quanh quẩn với ấm trà, lại có tửu lượng đáng sợ thế. Hẳn ngài Yu-hon không chỉ đào tạo cậu ta mỗi mảng binh pháp.

Rốt cuộc bữa tiệc trung thu cũng qua quá nửa, quan khách bắt đầu rời bàn, đi lại tự do trong chính điện và hoa viên, vừa thưởng trăng vừa gặp gỡ chào hỏi người này người kia. Lúc này chẳng ai buồn để ý có người vắng mặt nữa, bởi một số quý tộc say xỉn cũng đã được thuộc hạ đưa về phòng nghỉ.

Joo-doh len lách qua đám đông, khẽ đặt tay lên vai Kye-sook. “Đi thôi.”

Người thanh niên lập tức đứng dậy, không hề loạng choạng sau khi nốc từng đó rượu mời. “Phiền ngài, tướng quân.”

“Ngươi ổn không?” Ngài ái ngại hỏi. “Say thì không nên cưỡi ngựa.”

“Tôi có uống bao nhiêu đâu.”

“Ta thấy ngươi không từ chối chén nào.”

“Tôi uống ba chén là cùng. Còn lại chỉ nhấp môi xong lén đổ hết xuống nền rồi.”

Quả là thân tín của vương tử, Joo-doh chỉ nghĩ được có vậy, trên đường dẫn cậu ta ra cổng. Soo-won, người có tửu lượng không được khá lắm, cũng chuyên làm trò này trong những bữa tiệc.

“Ta cho ngươi mượn con chiến mã nhanh nhất trong doanh trại. Tính nó khá thuần, người lạ cưỡi cũng được.” Joo-doh phất tay ra hiệu và một người lính dẫn ngựa đến. Người đưa tin của vương tử cũng đã chờ sẵn ngay lối ra cùng rương hành lí lấy về từ nhà trọ. Kye-sook không chần chừ, lập tức leo lên ngựa. Vị tướng quân biết người kia nóng ruột lắm rồi. Nếu phi nhanh, có lẽ chỉ tới giấc trăng xế là về đến dinh thự.

“Đi đường cẩn thận. Chuyện ở đây cứ để ta giải quyết. Cho ta gửi lời hỏi thăm vương tử.” Ngài nói, lùi dần về phía cổng.

“Tướng quân.” Người kia cúi đầu thật thấp, tóc xoã xuống mặt. “Tôi thất lễ.”

“Đừng nói vớ vẩn. Về ngay đi.” Ngài hối.

Kye-sook kéo dây cương. Con chiến mã liền tung mình vào bóng tối nơi ánh đèn lồng và ánh trăng trung thu không thể chiếu đến. Chẳng bao lâu, tiếng vó ngựa hoàn toàn bị màn đêm nuốt chửng.

***

Soo-won ngủ chập chờn cả đêm. Cơn sốt hành cậu không yên giấc, dù đã uống gần chục thang thuốc. Cậu nằm mơ thấy đủ thứ kì dị, những chuyện trong quá khứ và những điều ở tương lai. Có lúc cậu cảm nhận được bàn tay mát rượi của mẹ đặt lên trán mình, mùi hương thân thuộc khi người cúi xuống ôm cậu, thì thầm những lời yêu thương lẫn đau buồn. Có lúc cậu nhìn thấy cha, người ngồi im lìm ngoài hiên trong ánh trăng bạc, quay lưng lại với cậu, áo loang đỏ máu. Có lúc cậu thấy mình mắc kẹt giữa một trận chiến, xung quanh loang loáng ánh đao bóng kiếm, tiếng than khóc dậy cả đất trời. Cùng rất nhiều cảnh đáng sợ khác mà trực giác mách bảo cậu một ngày nào đó chúng sẽ trở thành hiện thực.

Vị vương tử cứ thế mơ, thức, rồi lại ngủ, rồi lại mơ, lặp đi lặp lại đến nỗi cậu không phân biệt nổi giờ là ngày hay đêm, thế giới quanh cậu là thực hay mộng. Đầu cậu nóng bừng, cổ họng khô khốc, nhưng chẳng thể nhấc người dậy để uống nước. Một mình vật vã trong căn phòng rộng thênh, vắng ngắt, cậu chợt thấm thía một nỗi cô độc lạnh lẽo tột cùng. Nhưng cậu cũng không được phép kêu than. Chính cậu đã khăng khăng rằng mình đỡ rồi và muốn ở một mình. Quả thực lúc sáng cậu thấy khá hơn thật, không ngờ đến đêm cơn sốt lại trỗi dậy. Vì bệnh tình của cậu, mọi người trong dinh vương tử không thể tổ chức lễ trung thu náo nhiệt như mọi năm, lại thêm một số gia nhân đã xin nghỉ về thăm gia đình, thành thử dinh thự càng thêm hiu quạnh, hệt như một ốc đảo tối thẳm, tách biệt, lạc lõng giữa lúc cả Kouka đang chăng đèn đốt pháo sáng rực.

Lần thức dậy bao nhiêu đó không nhớ, Soo-won chợt nghĩ đến Kye-sook. Trước đây, mỗi lần cậu đổ bệnh, ngài ấy luôn có mặt bên cạnh. Thể trạng cả hai đều không được khoẻ khoắn gì cho cam, người này chăm người kia mãi thành quen. Thi thoảng Soo-won vẫn ước mình được thừa hưởng vóc dáng và sức mạnh của cha, thay vì tạng người mảnh dẻ và nước da trắng xanh giống mẹ. Nói cách khác, chính là vẻ ngoài thư sinh trói gà không chặt. Ngay từ nhỏ, cậu đã dễ bệnh hơn những đứa trẻ đồng trang lứa, dù cũng luyện cung kiếm hằng ngày nhưng vóc người không bao giờ được như các chiến binh. Có điều đối với cậu, thi thoảng ốm vặt không thành vấn đề. Soo-won chỉ sợ thứ đó, chứng bệnh truyền đời đã cướp đi mẹ cậu…

Giờ này có lẽ Kye-sook đang dự lễ trung thu của hoàng tộc với tư cách tân khoa. Thường tiệc sẽ kéo dài đến gần sáng với đủ mọi tiết mục. Soo-won biết Kye-sook sẽ qua được vòng thi cuối, cũng biết kiểu gì ngài ta cũng sẽ dằn nén để nán lại cung điện. Nhưng cậu vẫn không tránh khỏi cảm giác tội lỗi. Lẽ ra mọi chuyện sẽ không thành thế này. Cậu hiểu rõ Kye-sook đến mức có thể hình dung ra biểu cảm của ngài ta khi không thấy ai chờ ở cổng cung điện, hay cách ngài ta ép mình dự tiệc, buổi tiệc mà đối với vị tân khoa vốn đã không còn ý nghĩa nào nữa.

Soo-won trở mình, gác tay lên trán, định ngủ thêm được chút nào hay chút ấy, thì cánh cửa dẫn ra hiên nhà bị kéo mạnh. Ánh trăng bàng bạc, không khí lành lạnh ẩm hơi sương, và mùi hương cây cỏ trong vườn lập tức ùa đến vây lấy cậu.

Một người lê mình lên thềm, loạng choạng ngã vào phòng. Đêm thanh vắng nên tiếng thở nặng nhọc của người đó nghe rõ mồn một. Soo-won không biết mình đang mơ hay tỉnh, cậu rất muốn ra đỡ người đó dậy, nhưng người cậu như bị dán cứng xuống giường.

“Điện… điện hạ…”

Giọng người đó khản đặc. Giống như đã khóc suốt chặng đường từ kinh đô về đây.

Soo-won cũng muốn khóc. Khi người ta đang trong trạng thái ốm đau và cô độc, thường dễ bộc lộ cảm xúc thật hơn, và cũng dễ cảm kích bất cứ sự có mặt nào, dù là người thân, bạn bè, hay chỉ là xã giao. Chỉ cần có một người chịu ở bên cạnh mình vào thời khắc khó khăn đó, đã khiến người ta ấm lòng hơn hẳn những lời ngọt ngào yêu thương lúc bình thường.

“Thần xin lỗi. Thần về trễ.” Người kia khó nhọc bước tới, quỳ xuống cạnh giường. Nhìn bộ dạng ngài ta lúc này, chẳng ai dám nói đây là tân khoa vừa dự lễ trong cung điện. Mái tóc đen dài, mái tóc mà ngài ta luôn nâng niu chăm chút giờ xổ tung, rối bời, áo choàng xộc xệch dính đầy lá cây như thể ngài ta đã va quẹt vào cây cối dọc đường trong khi phi nước đại. Và trên khuôn mặt lẽ ra phải có chút nhẹ nhõm hân hoan sau khi thi đậu ấy, nay không còn gì ngoài một quầng mây đau buồn xám xịt.

“Kye-sook…” Soo-won vất vả đưa tay lên, và người kia vội giữ lấy, bằng cả hai tay. Tay ngài ta lạnh như nước đá, song cảm giác rất thật, không giống đang mơ. “Ta mê sảng rồi. Giờ này Kye-sook đang ở cung điện mới phải. Dù có phi nước đại… cũng không thể về trước bình minh…”

“Tướng quân Joo-doh cho thần mượn con chiến mã nhanh nhất.” Kye-sook thì thào. “Thần cũng không dừng lại nghỉ chặng nào.”

“Như vậy… không an toàn… Cơ thể của Kye-sook… không tiện phi ngựa giữa đêm khuya. Ngài còn uống rượu nữa chứ, mùi rượu vẫn còn nồng… Mới không gặp nhau hai hôm mà Kye-sook đã thành con sâu rượu mất tiêu…”

“Đêm nay trăng sáng đủ soi đường. Thần chỉ uống mấy chén lấy lệ, thần không hề say. Vả lại thần đã về đây an toàn rồi đấy thôi.” Người kia nói nhanh, xoa nhẹ tay cậu. “Điện hạ, người ngài nóng quá. Để thần lấy khăn và nước.”

“Nhưng Kye-sook… chỉ vừa mới trở về…”

“Thần quen thức đêm, đừng lo.” Kye-sook đứng dậy cởi bỏ áo choàng đi đường, toan vất xuống sàn, rồi nghĩ sao đó cẩn thận gấp lại vắt lên ghế. Ngài ta nhanh chóng rót nước ra chậu, thấm ướt khăn đặt lên trán cậu, đoạn giúp cậu uống nước, lo lắng hỏi có cần gọi thái y không. Soo-won lắc đầu.

“Thứ lỗi cho thần… nhưng có phải không…?” Kye-sook lên tiếng sau một hồi im lặng, có vẻ đã phải đắn đo rất lâu.

“Không, không phải. Chỉ là cảm lạnh bình thường… Không rõ do bị lây hay do thời tiết thất thường.” Soo-won nói ngay.

Người kia liền thở ra nhẹ nhõm.

Soo-won mím môi. Cậu biết Kye-sook hỏi về thứ gì và vì sao ngài ta lại cuống lên phi ngựa về ngay trong đêm như vậy. Không chỉ mình cậu bị ám ảnh. Kye-sook từng chứng kiến cha cậu tuyệt vọng từng ngày vì bệnh tình của người ông yêu thương, từng ở bên cậu suốt những năm cuối đời của mẹ cậu, từng cùng cậu dự lễ tang vào một ngày mưa ảm đạm. Với sự nhạy bén của mình, dĩ nhiên Kye-sook đã nghe được vài chuyện và dễ dàng suy đoán ra nếu đó là căn bệnh truyền đời, nhiều khả năng mẹ cậu cũng đã để lại trong cậu mầm mống của nó. Nhưng ít ra không phải lần này. Chưa phải. Soo-won mong nếu nó tìm đến cậu, hãy tìm đến muộn một chút, khi cậu bằng tuổi mẹ cậu cũng được, chỉ cần lúc đó giấc mơ cậu hướng tới đã thành toàn.

“Vậy thần yên tâm rồi…” Kye-sook gục mặt lên thành giường, mọi căng thẳng lẫn lo lắng suốt từ chiều phai đi trong khoảnh khắc. “Thần chỉ sợ…”

“Kye-sook vất vả rồi. Ta xin lỗi.”

“Ngài xin lỗi thần làm gì, điện hạ. Thần mới là người phải tạ lỗi, vì đã không ở cạnh ngài.”

“Chuyện nào ra chuyện ấy…” Soo-won bắt đầu tỉnh táo hơn, vì cơn sốt đã hơi hạ. “Ta không giữ được lời hứa của mình. Ta làm hỏng hết ngày vui của ngài. Còn phải để ngài phi ngựa cả đêm về đây. Có lẽ cũng khiến ngài đắc tội với tướng quân Joo-doh nữa.”

“Thần quả có vô lễ một chút.” Kye-sook lẩm bẩm, ngoảnh mặt đi. Soo-won đoán “một chút” của ngài ta là khá nhiều. “Thần sẽ tạ tội với tướng quân sau. Không thể dự lễ với vương tử, thần cũng hơi tiếc, nhưng chỉ cần ngài không sao là thần mừng rồi.”

“À phải…” Soo-won chợt nhớ ra. “Chúc mừng ngài, tân khoa năm nay. Kye-sook đã cố gắng rất nhiều, ngài xứng đáng với kết quả này.”

Kye-sook không đáp ngay. Sau một quãng im lặng, như để kiểm soát cảm xúc, ngài ta mới lặng lẽ lên tiếng.

“Điện hạ, thần đậu rồi.”

Vì không ngồi dậy ôm được, Soo-won chỉ có thể đưa tay xoa đầu người kia. Kye-sook rì rầm gì đó, nhưng không lùi lại.

“Chuyện trò để sau. Giờ điện hạ ngủ một chút đi. Thần sẽ canh cho người.” Kye-sook nói, đưa tay vuốt mái tóc rối bời của mình.

“Khoan, ngài có ngửi thấy mùi gì không?” Soo-won đã để ý từ lúc Kye-sook mở cửa lao vào, nhưng giờ mới có thể hỏi. Vì ban nãy ngài ta khép hai cánh cửa không kĩ, nên mùi hương vẫn len lỏi được vào phòng.

“Điện hạ, nếu ngài cứ nhất quyết xoáy vào mùi rượu trên áo thần… Thần đã nói mình chỉ uống mấy chén.”

“Không, không phải. Ta đang nói mùi hương từ ngoài vườn. Có vẻ là hương hoa.” Soo-won nói, mải để ý đến mùi hương mà quên cả cơn sốt đang hành hạ. Dường như nó càng lúc càng đậm, xuất phát từ hướng hoa viên. Một mùi hương xa lạ, ngọt ngào và huyền bí mà cậu chưa từng ngửi thấy bao giờ.

Kye-sook mở hé cửa, ló đầu ra, rồi quay vào. Trong ánh trăng mờ ảo, môi người kia vẽ một nụ cười nhoà nhạt. “Dạ lý hương đấy, điện hạ. Cuối cùng cũng nở.”

“Thật sao?” Soo-won ngạc nhiên hỏi lại. Cậu bắt đầu hiểu vì sao Kye-sook không quên được loài hoa từ làng cũ ấy, vì sao ngài ta bỏ công đem nó về chăm sóc. Cậu ước gì mình có thể ra hoa viên ngay bây giờ. Cậu vẫn còn một lời hứa với Kye-sook, rằng khi hoa dạ lý hương nở, sẽ cùng ngài ta thưởng hoa.

Thấy cậu định ngồi dậy, Kye-sook vội tiến đến ngăn lại. “Điện hạ, đừng cố sức. Không đêm nay thì đêm khác. Nó chỉ nở về đêm, ban ngày khép chặt cánh, và có thể nở suốt cả tuần.”

“Vậy được… ta cứ sợ là dạng chỉ nở một đêm như hoa quỳnh.”

“Không đâu, cây này bền bỉ lắm.” Kye-sook hạ giọng thật khẽ, như tự nói với mình.

“Phải nhỉ, giống một người ta quen. Từ nhành cây bé nhỏ còi cọc không ai đoái hoài, giờ đã vươn mình đơm hoa, mùi hương đặc biệt lan xa không ai có thể quên, ngay cả khi xung quanh nó chỉ có bóng tối cô độc. Thật buồn, thật đẹp, cũng thật can trường biết bao, ngài có nghĩ vậy không?”

Kye-sook quay đi, giấu mặt vào màn đêm. “Điện hạ, đừng nói nhiều nữa. Người mau ngủ đi, cho sớm bình phục.”

“Rồi, ta ngủ đây. Dù ta có rất~ nhiều chuyện muốn hỏi Kye-sook. Khi nào ta dậy, ngài phải kể thật chi tiết đấy.” Soo-won kéo chăn lên đến tận cổ, biết rằng lời của mình đã chạm được đến người kia. “Nếu Kye-sook mệt quá thì cứ vào giường ngủ tự nhiên, giống như ta với ngài lần trước ấy.”

“Cho thần xin.” Người kia làu bàu, chống tay lên chiếc bàn thấp cạnh giường. “Đâu phải ai cũng có thể bất ngờ chui vào chăn ngủ cạnh người khác như điện hạ.”

Soo-won mỉm cười đáp lại, rồi nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.

Những cơn ác mộng không tìm đến cậu nữa.

***

Sau trung thu, trời đổ mưa dai dẳng suốt cả tuần.

Soo-won buồn chán nằm trên giường, nhìn ra khu vườn ướt sũng, mờ nhoè sau màn mưa và sương mù. Thái y bảo cậu đã khỏi bệnh, nhưng vẫn cần tĩnh dưỡng thêm, nhất là trong tiết trời ẩm thấp lạnh lẽo này. Ông ta cũng dặn không được mở cửa kẻo gió lùa, nhưng vị vương tử đã phát chán bầu không khí ngột ngạt, nên nhờ Kye-sook mở hé một cánh cửa dẫn ra hiên, và ngài ta miễn cưỡng tuân lệnh sau rất nhiều lời càu nhàu. Khung cảnh những ngày mưa gió khá ảm đạm, nhưng ít ra mùi hương của mưa, sương, đất vườn cùng cây cối dễ chịu hơn mùi thảo dược và bệnh tật ứ đọng trong phòng kín nhiều.

Nghe tin cậu khỏi bệnh, mọi người đều muốn tổ chức lễ trung thu bù, nhưng Soo-won bảo lễ phải đúng ngày mới có ý nghĩa, năm nay xem như lỡ hẹn, năm sau sẽ đón trung thu linh đình náo nhiệt gấp đôi (Kye-sook không khỏi nhăn mặt khi nghe đến đây). Có điều cậu lại thất hứa thêm lần nữa với Kye-sook về chuyện ra hoa viên thưởng hoa sau khi kì thi kết thúc. Sau mấy ngày mưa lớn, hoa dạ lý hương đã tàn và nhanh chóng rụng sạch trước khi cậu có thể bước chân ra ngoài. Cậu nhóc tiếc nuối vô cùng vì không thể thưởng thức mùi hương huyền diệu ấy ở cự ly gần. Kye-sook bình thản bảo rằng hết đợt hoa này thì lại có đợt hoa khác, cây càng lớn đơm hoa càng nhiều, họ còn khối cơ hội cùng nhau thưởng hoa. Nhưng Soo-won vẫn có chút không cam tâm, khi mọi lời hứa và mọi dự định để chúc mừng người kia trở thành tân khoa đều hỏng hết ngoài ý muốn.

Đúng lúc cậu nhóc đang suy nghĩ xem có cách nào đền bù cho người kia trước khi mùa thu trôi qua không, thì hai cánh cửa dẫn ra vườn mở toang. Kye-sook ló vào, tóc và vai áo còn vương nước mưa, trông như vừa đi dạo một vòng. Trong tay ngài ta là một dĩa cam ngọt đã bóc sẵn.

“Điện hạ hôm nay thấy trong người thế nào?” Kye-sook bước vào phòng, đặt dĩa cam lên tủ đầu giường. “Ngài ăn cam đi. Thần mới lấy từ nhà bếp.”

“Ta khoẻ. Chỉ buồn chán thôi.” Soo-won đáp, dẫu sự thực là cậu vẫn chưa thể đi lại bình thường. Cậu bỏ múi cam vào miệng, vị chua ngọt tan trên đầu lưỡi. “Ngọt ghê. Kye-sook ở lại chơi chút đi. Chơi cả ngày cũng được nếu ngài muốn.”

“Thần sợ làm phiền điện hạ nghỉ ngơi.” Kye-sook nói, giũ những giọt nước mưa còn sót lại trên áo. “Với cả thần cũng không có chuyện gì hay ho để kể giúp ngài giải khuây.”

“Không cần đâu. Ta không thấy phiền. Kye-sook cứ ở lại đây là được. Đọc sách, viết văn, ăn uống ngủ nghỉ gì cũng được, chỉ cần ngài có mặt ở đây thôi. Phải rồi, ăn cam với ta cho vui.” Cậu đưa dĩa cam cho Kye-sook và ngài ta miễn cưỡng cầm một múi cho có lệ.   

“Vậy thần xin phép. Thần phải hoàn thành vài thứ trong sáng nay, nhanh thôi.” Người kia kéo chiếc bàn thấp ra sát cửa, rút trong tay áo ra một xấp giấy, ngồi xuống mài mực, thử bút, rồi chăm chú viết gì đó.

Độ mười phút sau, ngài ta đã viết xong ba tờ giấy đặc kín chữ. Tốc độ của Kye-sook rất nhanh, nhưng chữ hơi cứng, không được bay bướm như các học giả khác. Soo-won đã ăn hết cam. Cậu chống tay lên gối, quan sát người kia tập trung đưa bút, nhớ lại khoảng thời gian khi ngài ta cố gắng tập viết trở lại bằng cánh tay gần như tàn phế của mình, viết từng nét như trẻ con buổi đầu học chữ, mỗi lần nhấc bút là mỗi lần đau đớn thấu xương. Vậy mà chỉ ba năm sau, ngài ta đã trở thành một trong những sĩ tử đỗ đầu ba vòng thi. Nhìn Kye-sook lúc này, người ngoài chẳng ai biết được ngài ta đã nỗ lực đến thế nào, đã luyện chữ đến mức tay sưng tấy lên ra sao, thậm chí đã từng bế tắc, tuyệt vọng và muốn bỏ cuộc biết bao lần.

“Ngài viết gì mà trông đăm chiêu thế?” Soo-won không nhịn được.

“Thư tạ tội với tướng quân Joo-doh, đồng thời cảm ơn ngài ấy đã giúp đỡ.” Kye-sook cẩn thận nhúng con dấu tên mình vào dĩa mực son rồi đóng lên thư. “Thần nhờ người dẫn con chiến mã hôm nọ trả lại cho ngài ấy, đây là thư gửi kèm.”

“Chỉ tạ tội và cảm ơn mà dài đến những ba trang sao?”

“Dĩ nhiên là có bàn bạc thêm vài chuyện. Nhưng không tiện nói với ngài.” Kye-sook nhếch miệng, kiểu cười nửa miệng chỉ xuất hiện khi nào ngài ta mưu tính chuyện gì đó vô cùng mờ ám. Đoạn ngài ta thổi cho mực khô rồi gấp thư lại nhét vào bao. “Khi nào đến lúc, điện hạ sẽ biết. Thần đoán được ngài sắp làm gì đấy. Giờ có bám chặt lấy thần như nhái bén, thần cũng quyết không khai đâu.”

Bị phủ đầu như thế nên Soo-won không thốt thêm được tiếng nào, cũng không thể tiến hành cái việc cậu đang toan tính là bám lấy người kia hỏi cho bằng được. Kye-sook bắt đầu trở nên lợi hại rồi. Thành thử tất cả những gì cậu có thể làm là dẩu môi trưng ra vẻ mặt hờn dỗi. “Kye-sook toàn giấu ta làm chuyện ám muội thôi-”

“Thần đâu có định giấu ngài. Chỉ là chưa đến lúc.” Kye-sook nói qua vai. Người thanh niên bước ra hành lang giao thư cho gia nhân, không quên dặn dò vài điều. Kể từ lúc ngài ta trở thành tân khoa, ánh mắt mọi người nhìn ngài ta đã khác trước rất nhiều. Nhưng đối với Soo-won, Kye-sook mãi mãi vẫn chỉ là Kye-sook, trước sau không đổi, dù có khoác lên mình tấm áo nào đi chăng.

Vừa nghĩ đến đó, cậu thấy một cảnh tượng không tin được.

Người kia quay vào từ hành lang, đem theo hai chiếc giỏ tre nhỏ và một nong phơi lớn bằng chiếc bàn tròn ngoài hiên nơi họ hay uống trà.

Hai chiếc giỏ đựng đầy hoa nhài và hoa cúc, cánh còn tươi rói, ướt đẫm nước mưa, có vẻ mới được hái ngoài vườn sáng nay. Mùi hương dìu dịu lan toả khắp phòng.

Kye-sook thong thả ngồi xuống sàn, tỉ mẩn chọn từng bông hoa, giũ bớt nước, lặt bỏ lá và cánh già, rồi thả vào nong.

Soo-won dụi mắt vài lần mới dám tin cậu không nằm mơ. Mãi cậu mới có thể lên tiếng. “Ngài làm gì thế?”

“Hoa cúc bên bờ giậu đang nở rộ, dễ cũng phải hơn trăm bông nên thần định phơi khô làm trà hoa cúc cho hè năm sau. Tiện thể đi ngang bụi hoa nhài đang nở nên hái về ướp trà luôn. Không hái chúng cũng sớm rụng vì mưa gió. Thần để ngoài hành lang cho ráo nước, giờ mới đem vào.” Người kia chậm rãi giải thích. “Thần hi vọng đợt mưa dầm này sớm kết thúc. Gác lên lò sưởi trong phòng thì hoa mau khô, nhưng không thơm được bằng phơi nắng.”

Thì ra đây là lí do tóc và áo ngài ta ướt nước mưa. Soo-won chợt nhớ Kye-sook lúc trước thường lui tới chỗ thái y suốt, có lẽ đã học được vài thứ về cỏ cây ở đó. “Ta không biết Kye-sook cũng thích làm những chuyện này đấy.” Cậu nói, vẫn chưa hết ngạc nhiên.

“Không hẳn thích. Một phần vì thần thấy tiếc mớ hoa, một phần vì dinh thự ta trung thu vừa qua được tặng nhiều trà quá. Thấy điện hạ có hứng thú với các loại trà ướp hoa nên thần thử làm cho ngài. Ngày xưa khi thần tháp tùng cha ngài đi thăm bạn bè, không ít người trong số đó rất sành trà, thần cũng học được một ít.” Người kia nói, nhẹ nhàng rải đều hoa ra nong phơi. “Vả lại thần khá rỗi rãi sau khi thi xong. Cảm giác như thiếu thiếu cái gì đó, cần tìm việc để làm.”

“Phải nhỉ.” Soo-won công nhận. Kye-sook đã dành ba năm miệt mài học không ngừng nghỉ, mỗi ngày đều chỉ biết có sách vở, với mục tiêu nhất định phải đỗ kì thi chọn học giả hoàng tộc ngay lần đầu ứng thí. Nay mục tiêu ấy đã đạt thành, ngài ta cũng không cần phải cố sức nhồi nhét chữ mỗi ngày, đột nhiên thấy buồn chán sau khi áp lực bấy lâu biến mất, chưa làm quen được với nhịp sống mới là chuyện bình thường.

“Để ta giúp ngài.” Cậu nhóc toan trèo khỏi giường.

“Điện hạ cứ ở yên đấy. Ngài còn yếu, phải tĩnh dưỡng.” Kye-sook đột ngột ngẩng phắt lên, hệt như con mèo xù lông dữ dội. “Nếu ngài không muốn thần bị thái y mắng, bị người trong dinh thự trách móc, sau đó tự dày vò sỉ vả bản thân hết tuần thì làm ơn ở yên đấy.”

“Kye-sook đáng sợ quá~” Soo-won ngoan ngoãn chui lại vào chăn, tưởng tượng ra cảnh sau này Kye-sook trở thành quân sư, binh sĩ sẽ răm rắp tuân lệnh đến mức nào.

Người kia rải đều hoa xong thì đem cả rổ và nong ra ngoài, mãi một lúc sau mới quay lại. Ngài ta khép bớt một cánh cửa rồi đến bên giường. “Điện hạ, ngài có cần thần làm gì cho ngài không?” Kye-sook hạ giọng, vẻ dữ tợn như mèo xù lông ban nãy giống như chưa từng tồn tại.

“Nếu Kye-sook không bận gì…” Soo-won tựa mình vào gối. “Đọc sách cho ta nghe đi. Ta không đọc sách không chịu được, nhưng giờ cứ đọc một lúc là mỏi mắt.”

“Theo ý điện hạ.” Kye-sook đứng lên, lần tay theo những gáy sách ố màu trên giá. Họ đã hiểu rõ sở thích của nhau đến mức Soo-won không cần nói rõ là cuốn nào.

Người thanh niên giở sách ra, ngồi xuống bên cạnh cậu và bắt đầu đọc, chậm rãi, nhẹ nhàng, trong khi mưa đổ âm âm bên hiên và sương lãng đãng vắt mình trên hàng hoa cúc đẫm nước. Giọng Kye-sook không phải kiểu có thể gọi là trầm ấm, nó hơi cao và mỏng, nếu lên giọng sẽ nghe như đang mỉa mai châm chọc người ta, nhưng nếu hạ thấp lại có một sức hút nhất định, giống như tiếng nước mưa nhỏ xuống từ mái ngói ngoài kia. Nhưng trên hết, Soo-won vốn đã quen với giọng đọc này suốt bao năm, nó đã trở thành một phần không thể thiếu trong nhịp sống hằng ngày. Cái gì càng thân thuộc càng đem lại cảm giác dễ chịu, ngay cả khi nó không hoàn hảo.

Đọc một hồi, thấy vai mình nằng nặng, Kye-sook nhìn sang thì thấy Soo-won đã ngủ mất, đầu tựa vào người anh, mái tóc vàng mềm mại xoã lên vai anh. Người thanh niên không dám di chuyển, sợ sẽ đánh động vương tử, nên cứ tiếp tục giữ nguyên tư thế đó dù vai đã hơi tê mỏi. Anh lặng lẽ đọc sách thêm một lúc, trong thứ ánh sáng nhập nhoạng của ngày mưa thu buồn tẻ, lắng nghe những nhịp thở đều đặn, ấm áp của người bên cạnh.

Giây phút người ta cảm thấy hạnh phúc từ tận đáy lòng, có lẽ chỉ đơn giản và nhỏ bé thế này.

Mưa đổ nặng hạt hơn.

Tán lá trĩu nước khe khẽ rung lên theo từng đợt gió.

Khúc ca đều đều của mưa cuối cùng cũng gọi cơn buồn ngủ đến, âm thầm phủ xuống căn phòng. Điều cuối cùng Kye-sook ý thức được là cuốn sách tuột khỏi tay mình.

Trưa hôm đó, gia nhân trong dinh thự lại được dịp chứng kiến cảnh hai con mèo tựa vào nhau ngủ, lần này là trong phòng vương tử, vẫn đáng yêu tới mức mọi người không nỡ đánh thức dậy.

***

Vào ngày đầu tiên sau tiết Hàn lộ(*), trời quang đãng trở lại, không khí dịu mát hơn hẳn. Mặt trời cuối cùng cũng ló dạng sau bao ngày bị mây đen che khuất. Nắng đổ vàng trên những đoá cúc nở muộn dọc lối đi, cái nắng dịu dàng óng ả như tơ của những ngày cuối thu, không chói gắt khiến người ta nóng bức khó chịu, mà giống như chỉ để tô điểm thêm cho cảnh vật mùa thu vốn đã rất rực rỡ.

Soo-won vừa dùng xong bữa sáng, đang định ra hoa viên chơi, sau bao ngày đằng đẵng bị nhốt trong phòng. Cảm giác khoẻ lại thật tuyệt, lại thêm hôm nay đẹp trời, cậu thầm nhủ nhất định phải tận hưởng hết mình những ngày thu tươi đẹp còn lại, trước khi sương giá kéo về.

Vừa đẩy cửa bước ra, cậu thấy Kye-sook đã chờ sẵn ngoài hành lang, tóc được chải mượt, búi gọn, y phục chỉnh tề giống như hôm lên kinh dự thi, còn xách theo một bọc vải khá lớn. Biểu cảm đầy nghiêm trang như thể ngài ta đang dự đám tang vậy.

“Điện hạ, ngài ra bến thuyền cùng thần được không?”

“Hả?” Soo-won thấy như đất trời sụp đổ. “Kye-sook định bỏ xứ mà đi sao? Ngài tính đi đâu? Sao lại đột ngột…”

Người thanh niên nhíu mày, nhanh chóng hiểu ra vấn đề. “Ngài lại nghĩ linh tinh gì vậy? Nhanh thay áo đi, có người chờ chúng ta ngoài đó.”

Nghe vậy, Soo-won vui vẻ quay vào buộc lại tóc và thay áo, khoác thêm áo choàng đi đường bên ngoài, chắc mẩm đây chính là mưu tính ám muội mà Kye-sook quyết không chịu nói hôm trước, nên không gặng hỏi thêm nữa.

Từ dinh thự đến bến sông không xa lắm nên họ không cần cưỡi ngựa. Suốt chặng đường, cậu nhóc vừa vui sướng vừa hồi hộp, tới mức có cảm giác như đang lâng lâng trên mây. Ngay từ sớm, khi thức dậy cậu đã linh cảm hôm nay sẽ là một ngày đẹp vô cùng. Mấy khi Kye-sook chịu ra ngoài, lại còn chủ động mở lời rủ cậu đi cùng, quả là sự kiện ngàn năm có một.

Khi họ đến nơi, hai bên sông hãy còn giăng một lớp sương mỏng, khói sóng là là trên mặt nước và trên những rặng lau trổ hoa trắng xoá bên kia bờ. Lác đác thuyền buôn, thuyền câu ra vào bến, những phu khuân vác tất bật khuân hàng lên thuyền hoặc xuống thuyền, từ rau củ đến tôm cá đều còn tươi rói, chất đầy những sọt tre lớn.

“Người đó chưa đến. Chúng ta ra hơi sớm.” Kye-sook nói sau khi đánh mắt một vòng. “Xin điện hạ chờ một chút.”

Soo-won liền ngồi hẳn xuống bờ kè đá, dõi mắt theo những chiếc thuyền hối hả đến rồi đi. Cậu vốn hay ra bến thuyền chơi từ khi mới chuyển đến dinh thự, ngóc ngách nào cũng đã khám phá hết, nên không có hứng chạy loanh quanh nữa. Thứ duy nhất thu hút sự chú ý của cậu bây giờ chỉ có mưu tính mờ ám của Kye-sook và cái người ngài ta đang đợi kia.

Lúc tình cờ ngẩng lên, Soo-won tình cờ nhận ra. “Kye-sook, sao ngài lại gài trâm gỗ? Cây trâm vàng ta tặng ngài đâu?”

“Thần đã bảo mình không dám nhận. Hôm đó chỉ là bất đắc dĩ. Thần đã để lại đúng chỗ cũ trong ngăn tủ của ngài.”

“Nhưng đó là… khoan, sao ngài biết chỗ của nó là trong tủ của ta?”

“Ngài âm mưu hơi lộ liễu đấy, điện hạ. Thần đã bắt gặp ngài đang lục tung phòng lên tìm gì đó, còn cố tình đứng che ngăn tủ, nhớ không? Xâu chuỗi một chút là ra.”

“Nhưng đó là quà chúc may mắn cơ mà.” Soo-won không khỏi có chút chạnh lòng. “Kye-sook không thích nó sao? Ta đã bảo nếu ngài trả lại ta sẽ buồn chết mất.”

“Thần nói là ‘để lại’ chứ không phải ‘trả lại’. Thần sẽ chỉ gài nó khi nào thần xứng đáng hơn.” Kye-sook lặng lẽ nói, hướng mắt xuống dòng sông gợn sóng lăn tăn, để làn gió sớm thổi tung mái tóc đen dài. “Xem như điện hạ giữ hộ thần đi.”

Soo-won im lặng. Cậu hiểu cảm xúc gì đang dày vò người kia. Kye-sook chưa bao giờ quên việc mình không thể bảo vệ người quan trọng nhất. Cậu nhích người tới, đặt tay mình lên bàn tay đang siết chặt của ngài ta. “Được rồi. Ta sẽ giữ hộ ngài. Khi nào ngày đó tới, tự tay ta sẽ giúp ngài búi tóc một lần nữa, giống như hôm lên kinh dự thi.”

“Hiểu cho thần.” Kye-sook nhẹ giọng, rồi đột ngột ngoảnh về phía thượng nguồn. “Đến rồi.”

Soo-won nhìn theo, thấy một chiếc thuyền lớn có mui, khoang và mái che đang chầm chậm khoả nước tiến tới, bên mạn chạm trổ hoa văn mây và sóng nước, trên mui còn có cột treo hai dải đèn lồng phết giấy đỏ.

Chiếc thuyền dừng lại ngay trước mặt họ. Người lái thuyền chống sào, thả một tấm ván hẹp bắc qua vùng nước nông.

Tướng quân Không tộc, Joo-doh bước khỏi khoang thuyền trong sự ngạc nhiên của Soo-won, khoác thường phục thay vì chiến bào và bộ giáp nặng nề. “Điện hạ, quân sư tương lai. Để hai người chờ lâu.” Ngài ta chìa tay về phía họ. “Lên đây nhanh, kẻo không kịp đến nơi trước khi trời tối. Trơn đấy. Cẩn thận kẻo ngã.”

“Tướng quân.” Kye-sook cúi mình thật thấp trong khi Joo-doh giúp vương tử lên thuyền. “Cảm ơn ngài lần nữa, vì đã chiều theo yêu cầu đường đột này.”

“Có gì đâu. Năm nào ta cũng xuống đó. Vả lại mấy khi ngươi nhờ vả.”

Thuyền lướt đi rất êm, gần như không hề lắc lư chòng chành ngay cả khi nước vỗ vào hai mạn. Đuôi thuyền chất một mớ đồ đạc gói ghém kĩ lưỡng, còn trong khoang rộng và tiện nghi hơn họ nghĩ, có ghế thấp trải nệm, trên chiếc bàn nhỏ đặt một khay trà bánh, hai chậu hoa cúc nở vàng rực cạnh cửa sổ. Là kiểu thuyền các quý tộc thường dùng trong những chuyến du ngoạn. Thậm chí người ta còn có thể nghỉ qua đêm trên này.

“Rốt cuộc hai người mưu toan chuyện gì thế?” Soo-won hỏi ngay khi đã yên vị trên thuyền.

Joo-doh cau mày nhìn sang Kye-sook. “Quân sư tương lai chưa nói cho ngài à?”

“Tôi nghĩ nên giữ bí mật đến phút cuối.” Kye-sook bình thản nói. “Với lại tướng quân đừng gọi tôi như thế. Tôi vẫn chưa là gì cả.”

“A~ Ta hồi hộp tới mức không chờ được thêm một phút nào nữa.” Soo-won ngả người tựa hẳn vào lưng ghế. “Nhưng phải thế này mới vui. Đích đến càng mơ hồ thì hành trình càng thêm thú vị. Ta sẽ cố gắng chờ xem bí mật của Kye-sook là gì.”

“Hai người quả là suy nghĩ khác thường giống y nhau.” Joo-doh vỗ trán vẻ ngao ngán. “Thôi để ta kể một phần. Tiết Hàn lộ nào ta cũng xuôi dòng từ kinh đô xuống một thị trấn dưới hạ nguồn. Quân sư tương lai viết thư xin ta năm nay đưa điện hạ đi cùng, cậu ta nghĩ ngài sẽ thích thứ ở dưới đó. Ta bèn bảo sẽ chỉ đồng ý nếu cậu ta cũng đi theo. Không bắt ép thì cậu ta còn lâu mới chịu ra ngoài. Nghe nói hai người vừa có một trung thu cực kì tồi tệ.” 

“Thực ra còn không có trung thu luôn ấy, tướng quân Joo-doh.” Soo-won nói, bắt đầu tường thuật lại vụ phi ngựa giữa đêm hôm khuya khoắt của Kye-sook, cũng như hai tuần mưa gió buồn chán khủng khiếp. Joo-doh bèn góp thêm vào vài thứ, chủ yếu về chuyện Kye-sook khiến ngài lo lắng suốt cả buổi tiệc như thế nào.

Kye-sook không muốn có mặt khi bản thân đang là chủ đề chính của cuộc nói chuyện, nên bỏ ra ngồi dưới chân cột đèn lồng, sau lưng người lái thuyền – vốn là hộ vệ được Joo-doh tin tưởng nhất. Anh ngẩng đầu, để cơn gió lồng lộng từ hai bên sông mơn man trên mặt và phả khắp người mình. Đây không phải lần đầu anh đi thuyền, nhưng là lần đầu anh không phải nghĩ đến công việc, học hành, thi cử, nhiệm vụ cần làm khi đến đích.

Khoảng mươi phút sau, Soo-won ra ngồi cạnh anh. Cả hai không trò chuyện nhiều, chỉ yên lặng thưởng ngoạn phong cảnh xung quanh. Con thuyền rẽ sóng tiếp tục lướt về phía trước, đủ mọi cảnh chầm chậm trôi qua trước mắt. Những làng chài và phố cổ ven sông, những đồng lau sậy trải ngút tầm mắt, những cánh rừng thu đỏ rực chạy dài theo dãy núi mờ sương, những khúc sông đột ngột mở rộng, chảy xiết và đầy thác ghềnh, những vùng nước tĩnh lặng dưới bóng cổ thụ tịch mịch nơi người ta có thể nghe tiếng cá quẫy dưới đáy sâu. Hầu hết làng mạc, thị trấn họ đi ngang đều còn dư âm của trung thu, nhiều nơi hoa cúc nở rộ thành vạt, và những dải đèn lồng đủ màu sẽ không được gỡ xuống cho tới khi mùa thu kết thúc.

Chớp mắt đã đến chính ngọ. Họ dùng bữa trưa ngay trên thuyền, vốn đã được chuẩn bị sẵn, đựng trong hộp gỗ, thịnh soạn chẳng kém gì bữa tiệc nhỏ. Sau đó Kye-sook nghĩ mình lại có một giấc chợp mắt không chủ ý, thức dậy thấy đã xế trưa, thuyền đang đi qua rừng phong, xác lá đỏ ối rải đầy trên mặt nước, vài chiếc bị gió cuốn bay vào khoang, rắc lả tả trên sàn. Joo-doh đã ra ngoài đổi tay chèo cho người hộ vệ, còn Soo-won vẫn đang ngủ say, đầu tựa vào vai anh. Kye-sook để ý hôm nay vương tử ít huyên thuyên hơn mọi khi. Hẳn ngài vẫn chưa hoàn toàn lấy lại sức sau trận ốm dài, dẫu ngoài mặt vẫn cố tỏ ra mình khoẻ.

Kye-sook nhẹ đặt tay lên mái tóc vàng mềm mại, thầm nhủ ngài cứ ngủ thật ngon, thật yên bình thế này là được, anh không mong gì hơn. Đã có quá nhiều gánh nặng chất chồng lên bờ vai gầy nhỏ bé ấy. Vương tử thừa kế giấc mơ dở dang từ cha, mỗi ngày đều phải gồng mình gánh vác biết bao kì vọng của những người lớn hơn ngài cả chục tuổi, mà chưa từng buông một lời thở than, lại còn đi lo lắng cho người khác. Anh muốn ngài có những giây phút được thả lỏng bản thân, được thanh thản tận hưởng những niềm vui đơn giản, dù chỉ là trong một chuyến đi ngắn ngủi. Soo-won đã tìm đủ mọi cách để giúp anh giải toả căng thẳng suốt kì thi. Giờ anh cũng muốn đáp lại tương tự, hi vọng có thể giúp ngài khuây khoả sau từng đó ngày mắc kẹt trong phòng.

Cảnh vật thoáng vụt qua khung cửa sổ trước mặt, không còn rực rỡ dưới ánh ngày, mà đã bắt đầu sâm sẩm tối, sương thu dâng lên trắng xoá hai bờ. Tiếng chim nước vọng lên ai oán từ lùm lau sậy, như tín hiệu gọi những thuyền chài thu lưới quay về nghỉ. Gió len vào khoang thuyền, đem theo mùi hương tịch liêu chỉ buổi chiều muộn mới có.

“Kye-sook…” Vương tử cựa mình thức giấc. “Ta ngủ quên mất. Đến nơi chưa?”

“Thần nghĩ là sắp rồi. Tướng quân bảo khi đêm buông là đến nơi.” Kye-sook đưa tay vuốt mớ tóc mái hơi rối của Soo-won lại đúng chỗ. “Điện hạ vẫn ổn chứ? Có bị say sóng không? Có lạnh không?”

“Ta khoẻ~” Soo-won mỉm cười. “Ở đây còn thoải mái hơn ở nhà nữa.”

“Nếu thấy không khoẻ ngài phải nói ngay đấy.” Kye-sook với lấy bọc vải đem theo từ dinh thự, tháo nút buộc, cẩn trọng soạn những thứ trong đó ra chiếc bàn tròn. “Điện hạ tỉnh rồi thì chúng ta cũng nên bắt đầu chuẩn bị thôi. Thứ dưới thị trấn kia nghe nói phải đợi khi trăng lên mới thấy. Có một việc phải làm trước đã.”

“Kye-sook, không lẽ…” Soo-won nhìn mớ đồ mới được soạn ra trước mặt. Hai hộp trà, một đựng trà ướp hoa nhài và một đựng trà hoa quế, một hộp bánh nướng, trái cây, đèn lồng giấy xếp và nến trắng. Tất thảy đều gợi lên không khí trung thu, dù rằng trung thu đã qua từ nửa tháng trước, trong tình cảnh không được vui vẻ cho lắm.

“Gia nhân trong dinh thự đều muốn tổ chức trung thu bù cho ngài, đây chỉ là một phần rất nhỏ trong mâm cỗ họ toan bày. Bị ngài từ chối họ hơi thất vọng, nên tự dưng quay sang nhờ cậy thần.” Kye-sook vừa mở hộp trà vừa nói, ngữ điệu hơi chán chường, giống như bất đắc dĩ bị nhờ vả, nhưng ánh mắt lại phảng phất niềm hứng khởi, như thể ngài ta thực sự thích làm việc này. “Tuy hơi trễ, nhưng vẫn chưa đến cuối thu, trăng cũng chưa khuyết hẳn. Điện hạ đã hứa sẽ dự lễ trung thu cùng thần. Xem như bù cho tất cả những gì chưa kịp làm hôm đó.”

Đáp lại anh là một cái ôm, lần này từ phía trước, mạnh đến nỗi làm anh suýt đánh đổ lọ trà, và lâu đến nỗi khi Joo-doh bước vào vương tử vẫn chưa chịu buông ra.

“Quân sư tương lai, ta nhóm xong bếp than ngoài mui thuyền rồi đấy, có thể nhắc ấm nước lên…” Vị tướng quân vừa vén tấm mành che cửa khoang lên liền khựng lại. “Hai người đang làm gì thế…?”

“Không có gì. Điện hạ mơ thấy vài thứ.” Kye-sook giật mình, buột miệng đáp bừa, ngại tới mức chỉ muốn nhảy xuống sông. May mắn Joo-doh không bình luận gì thêm. Anh nhăn mặt nhìn xuống, thấy con mèo nhỏ kia vẫn bấu chặt chưa muốn thả tay, bèn vỗ nhẹ vào vai Soo-won. “Ngài xong chưa, để thần còn đi nấu nước pha trà.”

“Thôi, để đó ta nấu nước. Lo cho điện hạ đi.” Joo-doh thả mành và lùi ra.

“Ai cũng muốn tổ chức trung thu bù cho ngài, kể cả tướng quân, không phải ý của mỗi mình thần. Không cần cảm kích đến vậy.” Người thanh niên khẽ nói khi Joo-doh đã ra khỏi tầm nghe.

“Ta quả thực có mơ thấy vài thứ.” Soo-won rì rầm trong lúc vẫn áp mặt vào áo anh. Kye-sook hết cách, đành đặt lọ trà sang bên, đứng yên chịu trận, tự hỏi mình đang lâm vào tình huống quái đản gì đây.

“Ngài mơ thấy gì?”

“Đủ thứ, nhưng…” Soo-won ngập ngừng, giống như đang đắn đo có nên kể ra hay không. Cuối cùng vương tử quyết định im lặng. Kye-sook cũng không muốn gặng hỏi thêm. Anh chẳng lạ gì những cơn ác mộng đỏ máu, vốn đã đeo bám anh từ ngày rời khỏi chiến trường. Nhưng anh cũng không muốn tâm sự về chúng với bất kì ai, nhất là vương tử. Ngài đã gánh vác quá nhiều thứ và bận tâm đến quá nhiều người, anh không muốn ngài phải lo cho cả mình. Hẳn Soo-won cũng có chung hướng suy nghĩ đó. Tuy nhiên, một phần trong anh vẫn mong điện hạ thực lòng tin tưởng mình – dù chỉ một chút – đủ để chia sẻ với anh về những thứ đang khiến ngài phiền muộn, thay vì dằn nén mãi trong lòng.

“Kye-sook.” Soo-won lên tiếng. “Hứa với ta rằng ngài sẽ luôn ở bên ta, bất kể ta trở thành thứ gì đi chăng. Hứa rằng dù bất cứ chuyện gì xảy ra với ta, Kye-sook cũng đừng nghĩ đến việc tự huỷ hoại chính mình.”

“Điện hạ, ngài nói gì vậy…?”

“Hứa với ta.”

“Thần hứa.” Người thanh niên cúi đầu. Lời đáp chân thành từ tận sâu thẳm trái tim anh, dù anh không chắc mình có thể thực hiện được điều thứ hai. Nếu thực sự có chuyện gì đó xảy ra với Soo-won… đó là giả định mà anh tuyệt đối không muốn nghĩ đến. Nhưng nếu buộc phải đối mặt với tình huống nghiệt ngã ấy, lựa chọn của Kye-sook trước sau chỉ có một.

Anh đã thề sẽ luôn bước cùng ngài một con đường, dù nó dẫn thẳng vào cái chết.

“Xin lỗi. Ta phá không khí quá.” Soo-won chầm chậm buông tay ra, trở lại vẻ điềm tĩnh thường nhật. “Nào, chuẩn bị bàn tiệc thôi. Để ta giúp ngài rửa khay trà.”

“Điện hạ, ngài không cần phải ép mình vui vẻ trước mặt thần.”

“Không, thực ra ta đang rất vui.” Soo-won nói, quay lưng lại với anh. “Việc đề cập đến những điều kia mới là khó khăn. Ta không muốn Kye-sook nghĩ quẩn hay lo âu vì ta… nhưng có những lúc chúng dâng cao tới mức ta khao khát được chia sẻ với một người nào đó mà ta thực lòng tin tưởng. Người nào đó không buông lời phán xét, cũng không quá chú ý đến hình tượng vương tử. Người nào đó biết đến con người thật của ta.”

Không gian chìm vào sự tĩnh mịch buổi đêm, chỉ còn tiếng sóng vỗ, tiếng lá xào xạc, tiếng lửa bếp than cháy lép bép ngoài mui thuyền và tiếng hai người lặng lẽ chuẩn bị bàn tiệc trung thu đơn sơ.

Tưởng như cả thế kỉ sau, Soo-won mới nghe người kia thì thầm đáp lại, thật khẽ, đến gần như lẫn vào những âm thanh khác xung quanh. “Điện hạ, lúc nào thần cũng ở đây. Nếu ngài đủ tin tưởng và muốn chia sẻ cùng thần, cứ nói ra tự nhiên. Bất cứ chuyện gì. Không cần dằn nén, không cần chờ đến những lúc dâng trào cảm xúc rồi mới nói, cũng không cần lo cho thần. Cứ trò chuyện bình thường như người trong nhà thôi.”

Soo-won mở miệng, nhưng chợt nhận ra nói thêm gì cũng sẽ trở nên thừa thãi. Kye-sook, người vốn luôn vào ngay trọng tâm, đã nói ra rõ ràng mọi điều cần nói rồi. Vậy nên cậu chỉ đáp đơn giản. “Cảm ơn Kye-sook.”

“Thần mới phải cảm ơn ngài. Vì đã tin thần.”

Nghe đến đó, vị tướng quân rời khỏi cửa khoang thuyền, ra khơi lại bếp than sắp tàn. Ngài biết mình không cần can thiệp, cũng không cần lo cho hai tên nhóc ấy về những vấn đề kiểu này. Họ lớn lên bên nhau, hiểu nhau và sẽ tự biết cách giải quyết cùng nhau. Độ tin tưởng của ngài dành cho Kye-sook vừa tăng thêm một bậc. Ngài có thể yên tâm rằng cậu ta sẽ không bao giờ phản bội vương tử, dù bất cứ chuyện gì xảy ra sau này.

Thuyền rẽ qua một khúc ngoặt mờ tỏ trong sương. Thị trấn cổ từ từ hiện ra dưới ánh trăng bạc, với những dải tường đá phủ đầy rêu phong, những lối đi hẹp len lỏi dưới hàng cổ thụ đỏ lá và những mái ngói xám cổ kính nối nhau chạy dài đến tận chân núi. Bình thường, quang cảnh trông sẽ khá ma mị huyền bí, song đêm nay là đêm đặc biệt. Cả thị trấn rực lên dưới ánh sáng của hàng nghìn chiếc đèn lồng giăng khắp ngõ phố, tán cây và cả hai bờ sông. Nhìn từ xa chẳng khác nào ngọn hải đăng rực rỡ giữa biển đêm.

“Đến nơi rồi.” Joo-doh thông báo, vừa lúc ấm nước trên bếp reo sôi. Soo-won châm lửa hai cây nến, cắm vào đèn lồng giấy rồi treo bên cửa khoang. Bàn tiệc trung thu muộn của họ đã sẵn sàng.

Họ chỉ cần một ấm trà nóng, một ít trái cây, vài món ăn nhẹ và một hộp bánh nướng rắc hoa quế, cùng ngồi trong khoang thuyền, tận hưởng mùi hương cây lá cùng làn gió mát rượi của đêm thu trong vắt, ngắm vầng trăng đã lẹm mất một góc, không còn tròn vành vạnh, nhưng Soo-won bảo trên đời thứ gì hoàn hảo quá thì không thú vị.

Chỉ giản dị như vậy, song Kye-sook lại cảm thấy yên bình ấm áp hơn hẳn buổi yến tiệc linh đình trong cung điện xa hoa. Cổ nhân nói, cảnh chỉ đẹp khi gắn liền với một người. Thiếu đi người ấy, bao cảnh tuyệt mĩ đều trở nên vô nghĩa.

“Thị trấn này có một lễ hội đặc biệt tổ chức sau tiết Hàn lộ, được ví như trung thu thứ hai.” Kye-sook vừa rót trà vừa nói, cuối cùng cũng chịu tiết lộ điều ngài ta và Joo-doh úp mở cả ngày nay. “Ngoài chuyện thắp sáng cả vùng bằng đèn lồng và tiệc tùng ngắm trăng y như trung thu, đêm nay họ sẽ đồng loạt thả đèn trời. Nghe nói là để tiễn đưa mùa thu và cầu nguyện cho mùa đông sắp tới không quá khắc nghiệt.”

“Căn bản là vậy, nhưng còn có một tích truyện khác gắn với nó.” Joo-doh quay vào sau khi đưa bánh và trà cho người hộ vệ, vì dù mời rủ đến đâu anh ta vẫn quyết không vào khoang ăn chung, sợ làm phiền vương tử và tướng quân. Ngài ngồi xuống bên bàn, trong khi Kye-sook châm thêm vào chén của ngài trà hoa nhài tự ướp hai tuần trước. “Thời xưa, vùng này trải qua chiến tranh liên miên, nhiều người vĩnh viễn không về đoàn tụ với gia đình vào trung thu được nữa. Cư dân bèn tổ chức lễ trung thu thứ hai, dành cho những linh hồn chưa kịp quay về, trong số đó có cả một chiến binh huyền thoại, người đã bảo vệ ngôi làng này đến hơi thở cuối cùng.”

“Nghe hơi giống rằm tháng bảy. Thay vì hoa đăng thì họ thả đèn trời.” Kye-sook trầm ngâm nói. “Nhưng lâu dần nó đã trở thành lễ hội náo nhiệt để mọi người vui chơi, không còn thuần tuý là nghi lễ ảm đạm tưởng nhớ người đã khuất như ban đầu.”

“Phải. Ở đây người dân cũng sùng bái long thần, họ cho rằng nên gửi những thông điệp lên bầu trời. Trên mỗi chiếc đèn trời đều có ghi ước nguyện, hoặc chỉ đơn giản là những điều bản thân không thể nói cùng ai.”

“Tướng quân Joo-doh, ngài bảo tiết Hàn lộ nào mình cũng xuôi dòng xuống đây.” Soo-won lặng lẽ nói. “Có phải ngài từng mất ai đó ở đây không?”

Vị tướng quân uống nốt ly trà, ngoảnh mặt ra cửa sổ, nhìn vầng trăng vẽ một đường lung linh sáng trên mặt nước. Sự im lặng ấy chính là câu trả lời.

Ba người trò chuyện cho đến khi trăng lên đỉnh. Rặng núi phía xa chuyển tối đen như mực, nhưng vùng nước quanh chỗ họ neo thuyền lại lấp lánh phản chiếu ánh trăng sao cùng ánh đèn từ thị trấn, tựa như như có hàng nghìn viên ngọc dưới đáy nước đang đồng loạt toả sáng. Ấm trà đã vơi, nến trong đèn lồng cũng đã cháy quá nửa.

“Điện hạ, có cần khoác thêm áo choàng không?” Kye-sook hỏi khi họ bước ra mui thuyền. Hơi ẩm từ nước sông, gió đêm và sương thu làm anh hơi ớn lạnh, nhưng vẫn còn trong giới hạn chịu được.

“Không cần đâu. Ta không thấy lạnh.”

Soo-won vừa dứt lời thì Joo-doh đã lôi từ đâu đó ra hai tấm áo choàng đi đường dày, rồi quăng lên trùm kín họ. “Khoác vào. Chúng ta đang ở giữa sông, càng về đêm nhiệt độ càng giảm. Hai người mấy tháng qua cứ thay phiên nhau đau ốm suốt. Ai mà yên lòng nổi.”

Cả hai không cãi được Joo-doh câu nào, đành ngoan ngoãn khoác áo, mặc một hồi thấy hơi nóng cũng không dám cởi ra.

“Tới lúc rồi.” Vị tướng quân nói, hất mặt về phía thị trấn.

Theo một hiệu lệnh câm lặng, những nơi mới phút trước còn tối đen, phút sau đã lập tức sáng bừng. Khắp thị trấn mới đầu còn lác đác vài chấm sáng như đom đóm lập loè, sau đó dần tăng lên hàng chục, rồi đến hàng trăm, hàng ngàn quầng sáng vàng cam rực rỡ, tất cả đồng loạt được thả lên bầu trời, ánh đèn hắt xuống dòng sông thênh thang bên dưới, soi tỏ cả thế gian trong khoảnh khắc, át cả ánh sao mùa thu.

Trời quang đãng và gió không quá lớn, nên những chiếc đèn trời mang theo ước nguyện của biết bao người bay lên không gặp cản trở nào. Chúng lơ lửng trên bầu không một lúc khá lâu trước khi đổi hướng. Quang cảnh ngoạn mục này mỗi năm chỉ có thể gặp một lần, hơn nữa không phải lúc nào thời tiết cũng đủ tốt để tận hưởng trọn vẹn. Trước giây phút vừa đẹp đẽ vừa linh thiêng vô ngần, cả ba đều muốn tranh thủ tận hưởng từng giây từng phút, lòng mỗi người lại theo đuổi những tâm tư và suy nghĩ riêng, thành thử không ai cất lời suốt một lúc lâu, tới tận khi những chiếc đèn bay cao đến lưng trời và bắt đầu dạt sang một phía.

“Ta đã chuẩn bị sẵn cho hai người đây.” Joo-doh khẽ nói, đặt hai chiếc đèn trời xuống mui thuyền.

“Chắc tôi sẽ không…” Kye-sook dợm từ chối.

“Kye-sook, thử đi mà~” Soo-won hăm hở cắt ngang. “Mấy khi được trải nghiệm. Không có bút viết điều ước vào giấy thì ta cứ vừa thả vừa khấn nguyện vậy. Nào, thả với ta.”

Chiều ý vương tử, Kye-sook đành cùng ngài châm lửa từ nến vào bấc đèn. Khung đèn lập tức phồng lên vì hơi nóng. Hai người cẩn thận đem đèn của mình ra giữa mui thuyền, rồi thả tay.

Hai chiếc đèn chầm chậm bay lên, hoà vào ánh sáng của vầng trăng và hàng nghìn chiếc đèn trời khác lơ lửng giữa trời đêm.

Người thanh niên ngước lên. Ánh lửa đỏ cam chiếu rọi cả một khúc sông. Anh thoáng nghe Soo-won rì rầm lời nguyện. Lòng bất giác dâng trào vô vàn cảm xúc không tên. Dù vốn không quá tin vào phép màu của thần linh, nhưng vào giây phút này, được bao bọc trong bầu không khí thiêng liêng kì lạ của đêm hội, Kye-sook cũng đột nhiên muốn ước gì đó, hay đúng hơn là nói ra khao khát từ tận đáy lòng. Với cả đất trời.

Anh khép mắt, thầm khấn nguyện với chiếc đèn mỗi lúc một bay cao kia.

Một điều ước không dành cho bản thân mình.

Họ đứng lặng bên nhau, nhìn theo đến khi ánh sáng từ đèn nhập làm một với những vì tinh tú trên vòm trời đêm.

Đến khi chiếc đèn cuối cùng biến mất, gió cũng thổi mạnh hơn, họ mới quay vào trong khoang thuyền, lòng hãy còn bâng khuâng, chưa thoát khỏi quang cảnh đẹp đẽ mình vừa được chứng kiến.

“Kye-sook, tướng quân Joo-doh.” Soo-won lặng lẽ lên tiếng. “Cảm ơn hai người đã đưa ta đến đây. Ta sẽ không bao giờ quên ngày hôm nay. Đây là lễ trung thu tuyệt vời nhất ta từng được dự.”

“Có gì đâu, điện hạ. Ngài thấy thích là được.”

“Năm sau chúng ta lại đến đây, được không?”

“Tuỳ ý điện hạ.” Joo-doh nói, đẩy chiếc bàn tròn sát vào góc, kéo mành che kín hai cửa khoang thuyền và cửa sổ, không cơn gió lạnh nào len vào được. Ngài ta tất bật lôi ra đủ thứ chăn, gối và một chiếc đệm mỏng trong mớ hành lí chất chồng ở đuôi thuyền. Rõ ràng vị tướng quân đã chuẩn bị rất kĩ. “Nhưng năm sau chúng ta sẽ thuê trọ. Để điện hạ ngủ trên thuyền thế này thật không phải. Ta chẳng thích ý tưởng kì dị này chút nào, may mà khoang thuyền đủ rộng.”

“Sao cơ? Vậy người đề ra ý tưởng này là…” Soo-won ngạc nhiên hỏi, cứ ngỡ mọi thứ đều do một tay Joo-doh sắp xếp.

“Là thần.” Kye-sook vừa nói vừa dọn dẹp ấm chén trên bàn. “Điện hạ từng nói mình muốn thử ngủ qua đêm trên thuyền, giữa đêm trăng, sáng ra có thể ngắm bình minh và sương giăng trên mặt nước.”

“Ngài vẫn còn nhớ.” Soo-won cảm thán. Cậu nhóc nhớ rằng đó chỉ đơn thuần là buột miệng, từ hồi hè, khi Kye-sook còn đang ôn thi ở khu nhà biệt lập. Cậu cứ ngỡ ngài ta sẽ không để ý, trong khi đang căng thẳng nhồi nhét bài vở.

“Thần cũng nhớ là do thần đổ bệnh sau vòng thi thứ hai, nên ngài mới không thể quay lại hồ sen đó để ngắm trăng trên thuyền như dự định.” Kye-sook nói. “Nên thần đâu thể bỏ qua cơ hội này.”

“Điện hạ sẽ thấy trải nghiệm chẳng giống tưởng tượng lắm đâu, một lần là ngài ớn ngay.” Joo-doh cằn nhằn. “Hai người sẽ phải chịu chen chúc chật chội đấy. Ta và hộ vệ kia sẽ gác cho. Giờ đã gần nửa đêm, mau tranh thủ ngủ đi, mai còn cả chặng đường về.”

“Tướng quân yên tâm, ta đã quen chen chúc chật chội rồi~” Soo-won nhìn sang Kye-sook, cười toe. Người thanh niên thở hắt ra, nhớ lại đúng là suốt ba vòng thi, hầu như cậu nhóc đều tìm được cơ hội để ngủ chung với anh. Kye-sook luôn nghĩ mình chiều vương tử quá mức, song mỗi lần như thế anh đều không thể cất lời từ chối nổi. Hơn nữa, chính anh cũng phải công nhận sự có mặt của người kia khiến lòng anh đỡ bất an hơn nhiều. Thôi thì đôi khi rút ngắn khoảng cách một chút cũng không sao.

“Kye-sook.” Soo-won thì thào, khi cả hai nằm cạnh nhau trên tấm nệm mỏng, đắp chung chiếc chăn dày còn thoảng mùi nắng. Khoang thuyền kín gió nên rất ấm áp.

“Vâng, điện hạ?”

“Ước gì đêm nay cứ kéo dài mãi thì tốt nhỉ.”

“Không được đâu.” Người thanh niên thở dài. “Nhưng quả thực, trong khoảnh khắc, thần cũng có suy nghĩ tương tự.”

“Ta biết. Một ngày nào đó, tất cả sẽ kết thúc…” Giọng Soo-won chập chờn trong bóng tối. “Nhưng giây phút hiện tại vẫn rất đáng để tận hưởng. Ta ôm ngài được không? Ta lại muốn có gối ôm Kye-sook.”

“Tuỳ ý điện hạ.” Người kia bất lực nói.

Cánh tay nhỏ bé vòng qua lưng anh, như bao nhiêu lần trước đó. Ấm sực.

“Cảm ơn vì đã ở đây với ta.”

“Thần sẽ luôn ở đây với ngài.”

Vương tử im lặng, tựa mặt vào lưng anh. Một lúc rất lâu sau, khi Kye-sook tưởng Soo-won đã ngủ, thì anh loáng thoáng nghe tiếng ngài, nhoà nhạt, nhẹ bẫng, lẫn vào tiếng nước vỗ đều đều dưới thuyền. Mơ hồ tới mức Kye-sook nghĩ rằng đó chỉ là ảo giác trong lúc mình đang lơ lửng giữa ranh giới của thực và mộng.

Nhưng dường như đó là một câu xin lỗi.

Anh xoay người lại, kéo chăn phủ lên cả hai, rồi ôm lấy vương tử.

Nếu có thể giữ ngài an toàn thế này, trong vòng tay mình, bảo vệ ngài khỏi mọi tai ương trên thế gian, để không ưu phiền nào có thể cướp đi nụ cười rạng rỡ của ngài, thì thật tốt biết bao.

Anh chẳng bao giờ có thể trở thành một chiến binh mạnh mẽ để chiến đấu nơi tiền tuyến, để giương cung bạt kiếm bảo vệ đất nước và người mình yêu thương, như ngài Yu-hon hay tướng quân Joo-doh. Nhưng anh sẽ hỗ trợ vương tử, sẽ bảo vệ ngài và vương quốc này theo cách của riêng mình – hay nói đúng hơn, cách duy nhất anh đủ khả năng làm được, mà việc trở thành tân khoa chỉ là bước đầu.

Thanh kiếm trong tâm trí của một quân sư, sẽ chỉ vung lên vì một quân vương.

“Điện hạ không cần phải xin lỗi. Tất cả, đều là tâm nguyện của thần.”

Ngoài kia, vầng trăng thu âm thầm nhỏ từng giọt lệ lấp lánh như ngọc trắng xuống đáy nước.

 (*) Hàn lộ: một trong 24 tiết khí trong năm, là tiết khí sau tiết Thu phân, giai đoạn thời tiết trở nên mát mẻ trước khi sương giáng.

Xem chương 5

3 responses to “[AnY] Mùi hoa quế còn vương trên nếp áo – Bốn

  1. Pingback: [AnY] Mùi hoa quế còn vương trên nếp áo – Phần kết | Misty Forest

  2. Pingback: [Akatsuki no Yona][Short fic] Mùi hoa quế còn vương trên nếp áo – Mục lục | Misty Forest

  3. Pingback: [AnY] Mùi hoa quế còn vương trên nếp áo – Ba | Misty Forest

Bình luận về bài viết này